Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 22/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 22/2023/DS-ST NGÀY 19/05/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong ngày 20 tháng 4 và ngày 19 tháng 5 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 155/2022/TLST-DS ngày 31 tháng 10 năm 2022 về viêc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2023/QĐXXST-DS ngày 24 tháng 02 năm 2023, Quyết định hoãn phiên tòa số 49/2023/QĐST-DS ngày 21 tháng 3 năm 2023 và Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 03/2023/QĐST-DS ngày 20/4/2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Trần Văn T, sinh năm 1962 và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1974 Địa chỉ: Tổ a, ấp T, xã Đ, huyện AM, tỉnh Kiên Giang. (Có mặt).

2. Bị đơn: Bà Trương Ngọc D, sinh năm 1976 Địa chỉ: Ấp b, xã N, huyện A, tỉnh Kiên Giang. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình làm việc tại Tòa án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị N và ông Trần Văn T trình bày:

Vào ngày 05 tháng 02 âm lịch năm 2021 vì cần tiền làm thủ tục giấy tờ sang nhượng đất nên bà Trương Ngọc D (Gọi tắt là bà D) có hỏi vay của bà Nguyễn Thị N (Gọi tắt là bà N) 02 (hai) chỉ vàng 24k, lãi thỏa thuận 400.000 đồng/tháng. Đến ngày 06 tháng 02 âm lịch năm 2021 bà D hỏi vay thêm 5.000.000 đồng để trị bệnh thỏa thuận lãi suất 500.000 đồng/tháng/5.000.000 đồng tiền vay. Khi vay tiền bà Di hứa khi nào sang được đất sẽ trả hết số nợ nhưng sau đó bà D không thực hiện trả vốn và trả lãi cho đến nay. Do bà D không thực hiện trả nợ nên vợ chồng bà N và ông T đã làm đơn yêu cầu của Ban lãnh đạo ấp b xã N giải quyết. Tại buổi hòa giải vào ngày 05 tháng 01 năm 2022 bà D thừa nhận có vay của vợ chồng bà N và ông T02 chỉ vàng 24 kara và 5.000.000 đồng đồng thời bà N quy ra thành tiền 20.000.000 đồng và hứa trả dứt điểm vào tháng 3 âm lịch năm 2022 nhưng đến nay cũng không thực hiện trả nợ.

Trong đơn khởi kiện vợ chồng ông T và bà N yêu cầu bà D trả số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng).

Tại phiên tòa, vợ chồng ông T bà N yêu cầu bà D trả số nợ vay là 02 chỉ vàng 24kara loại vàng 9999 và 5.000.000 đồng đồng thời phải trả tiền lãi theo mức lãi suất pháp luật quy định từ ngày vay tiền cho đến khi trả xong nợ. Ngoài ra không có yêu cầu nào khác.

Bà Trương Ngọc D đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án và không gửi văn bản nêu ý kiến về yêu cầu khởi kiện, không có yêu cầu phản tố và không có ý kiến phản đối trước yêu cầu khởi kiện của vợ chồng bà N.

Kết quả thu thập chứng cứ:

Tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp gồm: 01 (Một) biên bản hòa giải của ấp b, xã N, bị đơn không cung cấp chứng cứ.

Qua yêu cầu khởi kiện và ý kiến của các đương sự đã thống nhất và không thống nhất với nhau các vấn đề sau:

Nội dung thống nhất: Không có Nội dung không thống nhất: Bà N ông T yêu cầu bà D trả số nợ 20.000.000 đồng.

Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa:

Về tố tụng: Hội đồng xét xử, Thẩm phán, thư ký phiên tòa và các đương sự đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, đề nghị xét xử vắng mặt bị đơn. Không có kiến nghị về phần thủ tục tố tụng.

Về nội dung: Đề nghị chấp nhận yêu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do các đương sự cung cấp, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Thẩm quyền giải quyết và quan hệ pháp luật có tranh chấp giữa các đương sự: Nội dung khởi kiện yêu cầu giải quyết tranh chấp do vi phạm nghĩa vụ trả nợ từ hợp đồng dân sự vay tài sản, bị đơn có nơi cư trú trên địa bàn huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang nên căn cứ vào các Điều 26, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự xác định vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Biên và quan hệ pháp luật của vụ án là “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

Bị đơn đã được triệu tập xét xử hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, căn cứ vào khoản 2 điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử thống nhất xét xử vắng mặt đối với bà Trương Ngọc D.

Tại phiên tòa, nguyên đơn thay đổi yêu cầu, việc thay đổi yêu cầu không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu Hội đồng xét xữ căn cứ vào Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự chấp nhận việc thay đổi yêu cầu của nguyên đơn.

[2] Về nội dung vụ án:

Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy: Trong đơn khởi kiện và tại phiên tòa hôm nay vợ chồng ông T và bà N yêu cầu bà D có nghĩa vụ trả số nợ vay, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng trong đó có Thông báo thụ lý vụ án nêu rõ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nhưng bà D không có ý kiến phản hồi hay phản đối yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đồng thời không cung cấp chứng cứ chứng minh việc đã trả nợ.

Căn cứ vào khoản 4 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Quá trình khởi kiện ông T và bà N cung cấp chứng cứ là biên bản hòa giải của Ban lãnh đạo ấp b xã N vào ngày 05 tháng 01 năm 2022 thể hiện bà D có nợ của vợ chồng ông T và bà N 02 chỉ vàng và 5.000.0000 đồng. Các bên thỏa thuận trả bằng tiền là 20.000.000 đồng, thỏa thuận trả làm hai lần cụ thể vào ngày 29 tháng giêng năm 2022 trả 10.000.000 đồng và ngày 29 tháng 2 âm lịch năm 2022 trả 10.000.000 đồng.

Tuy nhiên kể từ thời điểm thỏa thuận cho đến nay bà D vẫn không thực hiện trả nợ cho ông T và bà N. Việc bà D không thực hiện trả nợ như thỏa thuận đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ của bên vay nên ông T bà N khởi kiện yêu cầu bà D trả nợ là có căn cứ chấp nhận.

Đối với số nợ bà D vay của bà vợ chồng ông T là 02 chỉ vàng 24 kara và 5.000.000 đồng hiện nay bà D chưa thực hiện trả nợ căn cứ vào Điều 280, 463 và 466 Bộ luật dân sự, cần buộc bà D phải hoàn trả cho vợ chồng bà N và ông T 02 chỉ vàng 24 ka ra và 5.000.000 đồng.

Về yêu cầu tính lãi của số tiền vay: Nhận thấy khi cho vay tiền các bên có thỏa thuận trả lãi, tuy nhiên mức lãi thỏa thuận ban đầu là 500.000 đồng/5.000.000 đồng tiền vay/tháng là vượt quá mức lãi suất mà pháp luật cho phép. Tại phiên tòa vợ chồng ông T và bà N yêu cầu tính lãi theo quy định của pháp luật là hoàn toàn phù hợp và áp dụng mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự để tính số tiền lãi mà bà D phải trả cho vợ chồng ông T và bà N.

Thời gian bà D phải trả lãi cho vợ chồng ông T và bà N tính từ ngày vay là ngày 06/02 âm lịch/2021 (Tức ngày 18/3 dương lịch/2021) đến ngày xét xử vụ án là ngày 19/5/2023 tổng cộng là (02 năm + 02 tháng + 01 ngày), số tiền lãi được tính như sau:

5.000.000 đồng x 20%/năm x (02 năm + 02 tháng + 01 ngày) = 2.169.405 đồng. Như vậy tổng số tiền bà D phải trả cho vợ chồng bà N bao gồm: 5.000.000 đồng (Tiền vốn vay) + 2.169.405 đồng (Tiền lãi) = 7.169.405 đồng.

Về lãi suất chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền: Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bà D còn phải trả cho ông T và bà N khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

[4] Về án phí của vụ án: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải nộp toàn bộ án phí theo quy định của pháp luật. Án phí bà D phải nộp là:

[7.169.405 đồng + (02 chỉ vàng 24kara loại 9999 x 5.660.000 đồng/chỉ = 11.320.000 đồng)] x 5% = 924.470 đồng.

Ông T và bà N được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 500.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 244, Điều 144, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân năm 2015;

Áp dụng Điều 280, Điều 463, Điều 466, Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015;

Áp dụng Điêu 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ông Trần Văn T và bà Nguyễn Thị N.

Buộc bà Trương Ngọc D có nghĩa vụ trả cho vợ chồng ông Trần Văn T và bà Nguyễn Thị N 02 (Hai) chỉ vàng 24 kara loại 999 và 7.169.405 đồng (Bảy triệu, một trăm sáu mươi chín nghìn, bốn trăm linh năm đồng). Việc trả nợ được thực hiện khi án có hiệu lực pháp luật.

Về lãi suất chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền: Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bà Trương Ngọc D còn phải trả cho ông Trần Văn T và bà Nguyễn Thị N khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Vê an phi vụ kiện:

Buộc bà Trương Ngọc D phải nôp an phi dân sự sơ thẩm số tiền là 924.470 đồng (Chín trăm hai mươi bốn nghìn, bốn trăm bảy mươi đồng) Ông Trần Văn T và bà Nguyễn Thị N được hoàn trả số tiền đã nộp tạm ứng án phí là 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiên sô 0003646 ngày 28/10/2022 của Chi cuc thi hành án dân sư huyện An Biê n, tỉnh Kiên Giang tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Biên.

3. Quyền kháng cáo: Án xử công khai, các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 19/5/2023, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trương hơp ban an , quyêt đinh đươc thi hanh theo quy đinh tai Điêu 2 Luât thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự , ngươi phai thi hành án dân sư co quyên thoa thuân thi hành án , quyên yêu câu thi hành án , tư nguyên thi hành án hoăc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luât thi hành án dân sư; Thơi hiêu thi hành án đươc thưc hiê n theo quy đinh tai Điêu 30 Luât thi hanh án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

76
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 22/2023/DS-ST

Số hiệu:22/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 19/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;