Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 21/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 21/2022/DS-ST NGÀY 27/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 95/2022/ TLST- DS ngày 21 tháng 4 năm 2022 về việc: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 131/2022/QĐXX- ST ngày 01 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Vũ Hồng L - sinh năm 1956 Bà Trần Thị T - sinh năm 1956 Trú tại: ngõ N, đường L, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa. Người đại diện theo ủy quyền: Anh Vũ Hoàng L2 - sinh năm 1990 Trú tại: ngõ N, đường L, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

Bị đơn: Ông Nguyễn Mạnh H - sinh năm 1966 “vắng mặt” Bà Trần Thị T - sinh năm 1966 “vắng mặt” Trú tại: L, phường L, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Do có quan hệ họ hàng nên ngày 25 tháng 12 năm 2019 ông Vũ Hồng L và bà Trần Thị T có cho ông Nguyễn Mạnh H và bà Trần Thị T vay số tiền 1.100.000.000đ (một tỷ một trăm triệu đồng). Việc vay mượn có lập hợp đồng vay tại Văn phòng công chứng L, có thỏa thuận về thời hạn vay và lãi suất.

Sau khi ký hợp đồng ông L, bà T đã giao đủ số tiền 1.100.000.000đ. Đến thời hạn thanh toán thì ông H, bà T mới trả được cho ông L, bà T số tiền 921.400.000đ, số tiền còn lại 178.600.000đ không thanh toán mặc dù ông L, bà T đã nhiều lần đôn đốc, yêu cầu trả nợ nhưng ông H, bà T vẫn không thanh toán.

Ngày 15/7/2021 giữa ông L, bà T với ông H, bà T có lập Biên bản xác nhận công nợ. Theo nội dung của biên bản thì ông H và bà T thừa nhận còn nợ của ông L, bà T là 178.600.000đ và thống nhất số nợ trên được trả làm 05 lần. Trường hợp ông H, bà T không trả được số nợ trên thì thì phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất 20%/năm. Đến thời hạn thanh toán nợ theo cam kết nhưng ông H, bà T vẫn không thanh toán. Ngày 31/12/2021 ông H, bà T trả được 2.000.000đ nên số tiền gốc còn lại là 176.600.000đ. Nay ông L, bà T đề nghị Tòa án buộc ông H và bà T phải trả số tiền gốc 176.600.000đ và tiền lãi như sau:

- Tiền lãi từ ngày 16/7/2021 đến ngày 16/12/2021 (5 tháng) đối với số tiền gốc 178.600.000đ với mức lãi suất 20%/năm = 14.679.000đ (làm tròn số) - Tiền lãi từ ngày 01/01/2022 đến ngày 27/7/2022 (06 tháng 25 ngày) đối với số tiền gốc 176.600.000đ với mức lãi suất 20%/năm = 19.837.000 (làm tròn số) Tổng số tiền lãi là: 34.516.000đ. Tổng gốc và lãi = 211.116.000đ Tại bản tự khai bà Trần Thị T là bị đơn trong vụ án trình bày:

Trước đây vợ chồng bà có mượn giấy tờ nhà đất của ông L, bà T để cắm vay Ngân hàng V nhưng các bên làm thành hợp đồng vay với số tiền 1.100.000.000đ. Sau khi vay thì chúng tôi đã thanh toán và còn nợ lại ông L, bà T số tiền 178.600.000đ theo biên bản xác nhận công nợ là đúng. Nay gia đình bà T, ông L khởi kiện bà và ông H yêu cầu phải thanh toán số tiền gốc còn lại 176.600.000đ và tiền lãi, quan điểm của bà sẽ thanh toán số tiền gốc, còn số tiền lãi xin được miễn giảm vì hiện nay gia đình bà đang gặp khó khăn về kinh tế do làm ăn thua lỗ. Đối với số tiền gốc bà xin được trả dần mỗi năm 30.000.000đ cho đến khi hết nợ. Trường hợp ông L, bà T không đồng ý thì đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ cho bị đơn ông Nguyễn Mạnh H và Trần Thị T theo quy định của pháp luật nhưng ông H không đến tự khai cũng như tham gia phiên hòa giải. Bà T không tham gia phiên hòa giải.

Tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn giữ nguyên quan điểm đã trình bày không có thay đổi, bổ sung gì. Bị đơn ông H vắng mặt không có lý do, bà T có đơn xin xét xử vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử cũng như của nguyên đơn kể từ khi Tòa án thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân theo đúng quy đinh của pháp luật. Đối với bị đơn ông H và T Tòa án đã tống đạt hợp lệ lần 2 nhưng ông H vắng mặt không có lý do, bà T có đơn xin xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự để giải quyết vụ án là đúng quy định.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] VÒ tè tông: Đây là vụ án dân sự tranh chấp về hợp đồng vay tài sản. Bị đơn cư trú tại thành phố T, do vậy Tòa án thành phố Thanh Hóa giải quyết là đúng thẩm quyền. Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ 2 đối với ông H, bà T để tham gia phiên tòa nhưng ông H vắng mặt không có lý do, bà T có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự giải quyết vụ án là đúng quy định.

[2] Về nội dung:

- Đối với yêu cầu về số nợ gốc: Ngày 25/12/2019 giữa ông Vũ Hồng L, bà Trần Thị T với ông Nguyễn Mạnh H và bà Trần Thị T có ký Hợp đồng vay tiền với nhau. Nội dung, điều khoản thỏa thuận trong hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật. Đến thời hạn thanh toán do ông H và bà T không thanh toán đủ số tiền nợ cho ông L, bà T là đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Ngày 15/7/2021 các bên có lập Biên bản xác nhận công nợ với nhau, theo biên bản thì ông H, bà T thừa nhận còn nợ của ông L, bà T số tiền 178.600.000đ và cam kết trả nợ số tiền trên làm 05 đợt nhưng ông H, bà T vẫn không thanh toán theo đúng cam kết. Ngày 31/12/2021 ông H, bà T mới trả cho ông L, bà T được 2.000.000đ tiền gốc (hai triệu đồng). Do đó, yêu cầu của ông L, bà T buộc ông H, bà T phải thanh toán số tiền nợ gốc còn lại 176.600.000đ là có căn cứ nên chấp nhận.

- Đối với yêu cầu về số nợ lãi: Tại biên bản xác nhận công nợ ngày 15/7/2021 thì các bên thống nhất nếu ông H, bà T không thanh toán nợ cho ông L, bà T theo đúng cam kết thì phải chịu lãi suất theo mức lãi suất 20%/năm kể từ ngày 16/7/2021. Như vậy, mức lãi suất mà các bên thỏa thuận với nhau không vượt quá quy định theo Điều 468 Bộ luật dân sự. Tổng số tiền lãi 34.516.000đ mà ông L, bà T yêu cầu ông H, bà T phải thanh là phù hợp với quy định của pháp luật nên chấp nhận.

Đối với yêu cầu của bà T xin được trả dần số tiền gốc và đề nghị miễn tiền lãi cho ông bà vì hiện nay ông bà gặp khó khăn về kinh tế do không làm ăn được nhưng ông L, bà T không đồng ý miễn tiền lãi cũng như cho ông bà trả dần tiền gốc nên Hội đồng xét xử không có cơ sở để xem xét.

[5] Về án phí:: Ông Nguyễn Mạnh H và bà Trần Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm được làm tròn số là 10.556.000đ (mười triệu năm trăm năm sáu nghìn đồng).

Do ông L, bà T là người cao tuổi nên không phải nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 271; Điều 273 và Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 463; khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự. Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Vũ Hồng L và bà Trần Thị T.

Buộc ông Nguyễn Mạnh H và bà Trần Thị T phải trả cho ông Vũ Hồng L và bà Trần Thị T số tiền gốc 176.600.000 đồng và tiền lãi 34.516.000 đồng. Tổng gốc và lãi là 211.116.000đ (hai trăm mười một triệu, một trăm mười sáu nghìn đồng).

Ông Nguyễn Mạnh H và bà Trần Thị T tiếp tục chịu khoản tiền lãi phát sinh tiếp theo kể từ ngày 28/7/2022 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ gốc theo mức lãi suất thỏa thuận trong Biên bản xác nhận công nợ ngày 15/7/2021 đã được ký kết giữa các bên.

Về án phí: Ông Nguyễn Mạnh H và bà Trần Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch được làm tròn số 10.556.000đ (mười triệu năm trăm năm sáu nghìn đồng).

Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông H, bà T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

132
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 21/2022/DS-ST

Số hiệu:21/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 27/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;