TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BÌNH LONG, TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 21/2021/DS-ST NGÀY 06/09/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 06 tháng 9 năm 2021 tại hội trường xét xử, Toà án nhân dân thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 97/TLST- DS ngày 27 tháng 5 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/QĐST-DS ngày 18 tháng 8 năm 2021 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ph, sinh năm 1963 (có mặt) Địa chỉ: Tổ 1 ấp TT, xã TL, thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước
- Bị đơn: Anh Lê Văn D, sinh năm 1976 (có mặt) Chị Đặng Thị L, sinh năm 1977 (có mặt) (Anh Lê Văn D ủy quyền cho chị Đặng Thị L theo văn bản ủy quyền số 006893, quyển số 01/2021 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 07/6/2021 tại Văn phòng công chứng Huỳnh Hùng Dũng)
Cùng địa chỉ: Tổ 1 ấp TT, xã TL, thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện ngày 12 tháng 4 năm 2021, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ph trình bày:
Ngày 09 tháng 8 năm 2019, chị có cho vợ chồng chị Đặng Thị L vay số tiền 221.000.000 (Hai trăm, hai mươi mốt triệu) đồng, thời hạn vay 11 tháng, không tính lãi suất. Vợ chồng chị Đặng Thị L cùng ký giấy vay tiền và hẹn sẽ trả tiền vào ngày 02 tháng 7 năm 2020. Tuy nhiên, đến nay đã quá hạn trả nợ nhưng vợ chồng chị Đặng Thị L vẫn không trả tiền cho chị.
Chị khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc chị Đặng Thị L, anh Lê Văn D trả số tiền 221.000.000 (Hai trăm, hai mươi mốt triệu) đồng, không yêu cầu tính lãi suất.
* Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn chị Đặng Thị L trình bày:
Vào năm 2017 chị có vay của chị Nguyễn Thị Ph dùm cho mấy chị bạn buôn bán ở chợ TL số tiền 190.000.000 đồng, mỗi tháng đóng 10.200.000 đồng tiền lãi và 15.000.000 đồng tiền lãi của 12 dây hụi góp 250.000.000 đồng, tổng cộng 25.200.000 tiền đồng/tháng.
Khoảng 3 năm nay chị đóng tiền lãi đầy đủ cho chị Nguyễn Thị Ph nhưng hiện nay nhưng vì người ta không đóng góp cho chị, chị phải hốt hụi non, vay tiền của nhiều chỗ để đóng tiền lời và trả tiền gốc cho chị Nguyễn Thị Ph. Đến khi chị vay mượn người ta không được nữa, tiền cho người ta mượn cũng không lấy lại được nên chị không trụ được nữa. Đến khi chị không đóng được nữa chị Nguyễn Thị Ph gặp chồng chị và khi ấy chồng chị mới biết được chị nợ tiền chị Nguyễn Thị Ph và cộng các khoản nợ thì còn nợ chị Nguyễn Thị Ph số tiền 321.000.000 (Ba trăm, hai mươi mốt triệu) đồng. Chồng chị đã bán chiếc xe và trả trước cho chị Nguyễn Thị Ph số tiền 100.000.000 (Một trăm triệu) đồng, còn nợ số tiền 221.000.000 (Hai trăm, hai mươi mốt triệu) đồng và xin chị Nguyễn Thị Ph một năm sau trả nợ dần, chị Nguyễn Thị Ph yêu cầu hai vợ chồng chị ký vào giấy nợ tiền.
Nhưng một năm qua hoàn cảnh gia đình chị rất khó khăn, bản thân chị không đi làm do phải chăm sóc hai đứa con bị bệnh bại não và cha mẹ già 90 tuổi, trong nhà chỉ có một mình chồng chị đi làm, nợ thì không lấy được nên không có khả năng trả tiền cho chị Nguyễn Thị Ph.
* Tại phiên tòa, bị đơn anh Lê Văn D trình bày:
Anh làm nghề tài xế nên thường xuyên vắng nhà, anh giao hết mọi công việc nhà cho chị Đặng Thị L, anh không biết việc chị Đặng Thị L thiếu tiền chị Nguyễn Thị Ph cho đến khi chị Nguyễn Thị Ph gặp anh và khi ấy anh mới biết được chị Đặng Thị L nợ tiền chị Nguyễn Thị Ph số tiền 321.000.000 đồng và còn thiếu nợ rất nhiều người khác. Anh đã trả trước cho chị Nguyễn Thị Ph số tiền 100.000.000 đồng, còn nợ lại chị Nguyễn Thị Ph số tiền 221.000.000 đồng và xin chị Nguyễn Thị Ph một năm sau trả nợ dần, chị Nguyễn Thị Ph yêu cầu hai vợ chồng anh chị ký vào giấy vay tiền. Nhưng hơn một năm qua, hoàn cảnh gia đình anh chị rất khó khăn, nuôi hai đứa con bị bệnh bại não và cha mẹ già 90 tuổi nên không có khả năng trả tiền cho chị Nguyễn Thị Ph.
Tại phiên tòa, các đương sự vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, ý kiến, quan điểm, không tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ ý kiến trình bày và kết quả tranh luận tại phiên tòa và thông qua nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Theo đơn khởi kiện, chị Nguyễn Thị Ph yêu cầu chị Đặng Thị L, anh Lê Văn D trả số tiền 221.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi suất, Hội đồng xét xử xác định đây là vụ án “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự.
Chị Đặng Thị L, anh Lê Văn D cư trú tại địa chỉ tổ 1 ấp TT, xã TL, thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước.
Về sự tham gia phiên tòa của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước: Tòa án không tiến hành thu thập chứng cứ trong hồ sơ vụ án nên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bình Long không tham gia phiên tòa xét xử vụ án theo quy định tại Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ Điều 232 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án không có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bình Long.
[2] Về nội dung tranh chấp: Xét yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Ph yêu cầu chị Đặng Thị L, anh Lê Văn D trả số tiền 221.000.000 đồng, không yêu cầu lãi suất. Quá trình giải quyết vụ án, chị Đặng Thị L xác định có vay của chị Nguyễn Thị Ph số tiền 190.000.000 đồng dùm mấy chị bạn buôn bán ở chợ TL, mỗi tháng trả 10.200.000 đồng tiền lãi và tiền lãi 15.000.000 đồng của 12 dây hụi góp 250.000.000 đồng, tổng cộng 25.200.000 đồng/tháng. Tuy nhiên, vì chị Đặng Thị L cho người khác mượn tiền không lấy được và không vay mượn người khác được nữa nên không có khả năng trả tiền cho chị Nguyễn Thị Ph.
Quá trình giải quyết vụ án, chị Đặng Thị L và anh Lê Văn D cho rằng chỉ có một mình chị Đặng Thị L vay tiền của chị Nguyễn Thị Ph, anh Lê Văn D không biết việc này, đến khi chị Nguyễn Thị Ph gặp anh Lê Văn D thì anh Lê Văn D mới biết chị Đặng Thị L nợ tiền chị Nguyễn Thị Ph và yêu cầu anh Lê Văn D ký tên vào giấy vay tiền. Xét thấy anh Lê Văn D là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự đầy đủ, biết được việc ký, ghi họ tên vào giấy vay số tiền 221.000.000 đồng có thể dẫn đến hậu quả pháp lý sau này nhưng anh Lê Văn D vẫn tự nguyện ký, ghi họ tên vào giấy vay tiền ngày 09 tháng 8 năm 2019, điều đó thể hiện việc anh Lê Văn D thống nhất cùng chị Đặng Thị L vay số tiền 221.000.000 đồng của chị Nguyễn Thị Ph. Căn cứ giấy vay tiền ngày 09 tháng 8 năm 2019 do chị Nguyễn Thị Ph cung cấp, có nội dung “Tôi tên Đặng Thị L, tôi có mượn của chị Phước số là 221.000.000 (Hai trăm, hai mươi mốt triệu) đồng, thời gian trả tháng mùng 2/7/2020, số tiền tôi vay được sự đồng ý cả hai vợ chồng”. Tại phiên tòa chị Đặng Thị L, anh Lê Văn D xác định chữ ký trong giấy vay tiền là chữ ký của anh chị.
Do đó Hội đồng xét xử có căn cứ xác định anh Lê Văn D, chị Đặng Thị L vay số tiền 221.000.000 đồng của chị Nguyễn Thị Ph vào ngày 09 tháng 8 năm 2019, hẹn đến ngày 02 tháng 7 năm 2020 trả tiền, tuy nhiên đến nay anh Lê Văn D, chị Đặng Thị L đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ cho chị Nguyễn Thị Ph. Do đó yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Ph về việc yêu cầu anh Lê Văn D, chị Đặng Thị L trả số tiền 221.000.000 đồng được Hội đồng xét xử chấp nhận. Về lãi suất, chị Nguyễn Thị Ph không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[3]. Án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Anh Lê Văn D và chị Đặng Thị L phải chịu số tiền 11.050.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 266, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 357, Điều 463, Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015;
Áp dụng Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Ph. Buộc anh Lê Văn D và chị Đặng Thị L phải trả cho chị Nguyễn Thị Ph số tiền 221.000.000 (Hai trăm, hai mươi mốt triệu) đồng.
2. Án phí dân sự sơ thẩm:
Hoàn trả cho chị Nguyễn Thị Ph số tiền 5.525.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0001732, quyển số 0035 ngày 25 tháng 5 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Bình Long.
Anh Lê Văn D và chị Đặng Thị L phải chịu số tiền 11.050.000 (Mười một triệu, không trăm năm mươi ngàn) đồng án phí.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và khi có đơn yêu cầu thi hành án, bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự, nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.
Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 21/2021/DS-ST
Số hiệu: | 21/2021/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Bình Long - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 06/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về