Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 20/2022/DS-ST

  TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRI TÔN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 20/2022/DS-ST NGÀY 31/05/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 5 năm 2022 tại Tòa án nhân dân huyện Tri Tôn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 185/2021/TLST-DS ngày 28/12/2021 về “tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2022/QĐXX-DS ngày 29 tháng 4 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 23/2022/QĐST-DSST, ngày 16 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Công ty tài chính TNHH Một Thành Viên Quốc tế Việt Nam JACCS (gọi tắt là JIVF); địa chỉ: Lầu 15, Tòa nhà Centec, số ** đường N, phường Võ Thị Sáu, Quận 3, thành phố Hồ Chí Minh

Người đại diện: Ông Trần Minh H, sinh năm 1990; địa chỉ: Lầu 15, Tòa nhà Centec, số ** đường N, phường Võ Thị Sáu, Quận 3, thành phố Hồ Chí Minh (theo giấy ủy quyền số 64/2021/UQLM-JIB), ngày 06/12/2021)

2. Bị đơn: Bà Trần Hoa T, sinh năm 1991; địa chỉ: Khóm Sóc Triết, thị trấn Cô Tô, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình tố tụng tại Tòa án người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Trần Minh H trình bày:

Nguyên vào ngày 20-6-2020 bà Trần Hoa T có ký hợp đồng cho vay tiêu dùng số 90127000041517000 với Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn (TNHH) một thành viên (MTV) Quốc tế Việt Nam JACCS (gọi tắt: JIVF) để vay tiền theo hình thức trả góp hành tháng tại quầy tư vấn khách hàng, thời hạn vay 24 tháng, số tiền vay 40.000.000 đồng, lãi suất tháng 3.1700%, lãi quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn. Quá trình vay bà T đã trả được số tiền gốc 11.680.813 đồng, lãi 9.968.187 đồng vào ngày 22-7-2020. Từ ngày 22-7-2020 đến nay bà T chưa thanh toán cho JIVF, dù phía JIVF đã nhiều lần nhắc nhỡ. Nay JIVF yêu cầu bà Trần Hoa T phải thanh toán cho JIVF số tiền 42.052.992 đồng, trong đó: tiền gốc 28.319.187 đồng, lãi 11.835152 đồng, lãi quá hạn 1.898.653 đồng (lãi tính đến ngày 31/5/2022) và không yêu cầu lãi phát sinh theo hợp đồng.

Bị đơn bà Trần Hoa T mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng bà T không có văn bản ghi ý kiến về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn gửi cho Tòa án và không liên hệ Tòa án làm việc theo các văn bản tố tụng nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của bà T.

Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ bà Trần Hoa T đến tham gia phiên họp và hòa giải theo đúng trình tự của pháp luật nhưng bà T không đến nên Tòa án không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa:

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn yêu cầu bà Trần Hoa T phải thanh toán cho JIVF số tiền 42.052.843 đồng, trong đó: tiền gốc 28.319.187 đồng, lãi 11.835152 đồng, lãi quá hạn 1.898.653 đồng (lãi tính đến ngày 31-5-2022) và không yêu cầu lãi phát sinh theo hợp đồng.

Bị đơn bà Trần Hoa T vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa, không rỏ lý do.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định tại Điều 35, Điều 68, Điều 97, Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự tại phiên tòa về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

- Về việc chấp hành pháp luật: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tại Điều 70, Điều 71. Riêng bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do là chưa thực hiện đúng quy định tại Điều 70, Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về ý kiến giải quyết vụ án: Căn cứ vào hợp đống số 90127000041517000 ngày 21-6-2020 xác định bà T có vay của JIVF số tiền 40.000.000 đồng, thời hạn vay 24 tháng, lãi suất 3,17%/tháng, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn, hnagf tháng trả 2.405.359 đồng vào trước hoặc đúng ngày 22 hàng tháng. Từ ngày 22-7-2020 đến ngày 22-4-2021, bà T thanh toán được số tiền 21.649.000 đồng, trong đó nợ gốc 11.680.813 đồng, tiền lãi 9.968.187 đồng, còn nợ lại tiền gốc 28.319.187 đồng. Mặc dù không ghi nhận được ý kiến của bà T, tuy nhiên Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng hợp lệ nhưng bà T không có ý kiến phản hồi xem như từ bỏ quyền lợi của mình. Qua đó, nhận thấy thực tế bà T có vay của JIVF số tiền trên và còn nợ lại 28.319.187 đồng. Do bà T đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ khi thực hiện hợp đồng nên yêu cầu khởi kiện của JIVF là có cơ sở.

Riêng đối với lãi suất các bên thỏa thuận trong hợp đồng 3,17%/tháng là cao hơn so với quy định của pháp luật. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 4 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng thì JIVF là một trong nhưng hình thức tổ chức tín dụng và được điều chỉnh bởi Luật các tổ chức tín dụng. Do đó, tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng. Chính vì vậy bà T phải trả lãi theo thỏa thuận trong hợp đồng như khởi kiện của JIVF là có căn cứ.

Từ những nhận định trên, bà T có trách nhiệm trả cho JIVF số tiền 42.052.992 đồng.

Từ những phân tích trên, đề nghị Toà án xem xét quyết định:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty tài chính TNHH MTV Quốc Tế Việt Nam JACCS. Buộc bà T có trách nhiệm trả cho JIVF số tiền 42.052.843 đồng.

Về án phí: Bà T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Nội dung mà các bên đương sự tranh chấp liên quan đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng vay tài sản là loại tranh chấp được quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và do bị đơn bà Trần Hoa T có nơi cư trú tại khóm Sóc Triết, thị trấn Cô Tô, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Toà án nhân dân huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.

[2] Về việc xét xử vắng mặt đương sự: Đương sự bà Trần Hoa T đã được triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa nhưng bà T vẫn vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bà T là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

[3] Về thời hiệu: Bà T đã ký kết hợp đồng cho vay tiêu dùng với Công ty tài chính TNHH MTV Quốc tế Việt Nam JACCS, bà T cũng đã thực hiện nghĩa vụ trả vốn, và trả lãi được một phần. Còn lại tiền vốn, lãi bà T hẹn nhiều lần, nên Công ty tài chính TNHH MTV Quốc tế Việt Nam JACCS khởi kiện là thuộc trường hợp thời hiệu được tính lại theo quy định tại Điều 429 Bộ luật Dân sự.

[4] Về nội dung tranh chấp: Hợp đồng cho vay tiêu dùng giữa các bên có lập thành văn bản, trên nguyên tắc tự nguyện thỏa thuận phù hợp với quy định của pháp luật, nên được xem là hợp đồng hợp pháp được pháp luật bảo vệ.

Quá trình thực hiện Hợp đồng cho vay tiêu dùng số 901270000415157000 ngày 21-6-2020, bà T đã trả được số tiền gốc 11.680.813 đồng, lãi 9.968.187 đồng. Sau đó, bà T đã không hiện đúng theo quy định đã ký kết trong hợp đồng là đã vi phạm Điều 3 của hợp đồng cho vay tiêu dùng số 901270000415157000 ngày 21-6-2020, vì vậy Công ty tài chính TNHH MTV Quốc tế Việt Nam JACCS khởi kiện là phù hợp với điều khoản chung quy định tại Điều 11 của hợp đồng tín dụng mà hai bên ký kết là phù hợp.

Theo bảng chiết tính về vốn và lãi suất mà đại diện Công ty tài chính TNHH MTV Quốc tế Việt Nam JACCS (JIVF) cung cấp tại phiên tòa thì bà T còn nợ lại Công ty số tiền nợ gốc: 28.319.187 đồng, lãi 11.835.152 đồng, lãi suất quá hạn 1.898.653 đồng. Hội đồng xét xử nhận thấy, sự thỏa thuận giữa các bên việc thực hiện hợp đồng thì bà T đã vi phạm nghĩa vụ trả lãi như thỏa thuận là vi phạm nghĩa vụ của bên vay, nên Công ty tài chính TNHH MTV Quốc tế Việt Nam JACCS khởi kiện yêu cầu bà Trần Hoa T trả số tiền 42.052.992 đồng, trong đó: nợ gốc: 28.319.187 đồng, lãi 11.835.152 đồng, lãi suất quá hạn 1.898.653 đồng là phù hợp với sự thỏa thuận của các bên và quy định tại Điều 466 Bộ luật Dân sự nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đối với khoản tiền lãi suất theo sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng là 3,17%/tháng, cao hơn so với quy định của pháp luật. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 4 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng thì JIVF là một trong nhưng hình thức tổ chức tín dụng và được điều chỉnh bởi Luật các tổ chức tín dụng. Do đó, tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng. Do vậy, giữa JIVF và bà T thỏa thuận mức lãi theo hợp đồng tín dụng là có căn cứ.

Về lãi phát sinh theo hợp đồng, tại Tòa đại diện theo ủy quyển của nguyên đơn không yêu cầu tính lãi tiếp tục phát sinh theo hợp đồng, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Về án phí:

Do yêu cầu khởi kiện của Công ty tài chính TNHH MTV Quốc tế Việt Nam JACCS được chấp nhận nên JIVF không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm và được nhận lại tiền tạm ứng án phí đã nộp. Bà T phải chịu 5% án phí đối với số tiền mà JIVF yêu cầu được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 35, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 463; Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng;

Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty tài chính TNHH MTV Quốc tế Việt Nam JACCS (gọi tắt: JIVF) Buộc bà Trần Hoa T có nghĩa vụ phải trả cho Công ty tài chính TNHH MTV Quốc tế Việt Nam JACCS số tiền 42.052.992 đồng (bốn mươi hai không trăm năm mươi hai ngàn chín trăm chín mươi hai đồng), trong đó: nợ gốc: 28.319.187 đồng, lãi 11.835.152 đồng, lãi suất quá hạn 1.898.653 đồng.

Về án phí: Bà Trần Hoa T phải chịu 2.102.649 đồng (hai triệu một trăm lẻ hai ngàn sáu trăm bốn mươi chín đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Công ty tài chính TNHH MTV Quốc tế Việt Nam JACCS được nhận lại 783.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm, mà Công ty tài chính TNHH MTV Quốc tế Việt Nam JACCS đã nộp theo biên lai thu số 0008074 ngày 08-12-2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tri Tôn.

Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

355
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 20/2022/DS-ST

Số hiệu:20/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tri Tôn - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 31/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;