TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KHOÁI CHÂU, TỈNH HƯNG YÊN
BẢN ÁN 16/2024/DS-ST NGÀY 25/07/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 25/7/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 34/2023/TLSTDS ngày 21 tháng 7 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 17/2024/QĐXX-DSST ngày 14/6/2024 và Quyết định hoàn phiên tòa số: 11/2024/TB-TA ngày 03/7/2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1977. - Quê quán: Thôn E, xã T, huyện K, tỉnh Hưng Yên. - Hiện trú tại: Số nhà B, khu nhà ở Đ, phường A, thành phố V, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
2. Đồng bị đơn: 2.1. Bà Trần Thị P, sinh năm 1971. 2.2. Ông Nguyễn Văn X, sinh năm 1966. Đều trú tại: Thôn C, xã T, huyện K, tỉnh Hưng Yên.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Hoàng P1, sinh năm 1969. Địa chỉ: Số nhà B, khu nhà ở Đ, phường A, thành phố V, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
4. Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (chị Nguyễn Thị H) là: Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1950; Trú tại: Thôn E, xã T, huyện K, tỉnh Hưng Yên. (Theo Giấy ủy quyền, công chứng số: 1875, quyển số: 01/2023/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 27/7/2023 tại Văn phòng C; Địa chỉ: Số B N, phường G, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu).
Tại phiên tòa: Chị H, ông P1, bà P, ông X và ông Đ đều vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo nội dung đơn khởi kiện, lời khai, quan điểm của nguyên đơn (chị Nguyễn Thị H) và đại diện theo ủy quyền của chị H là ông Nguyễn Văn Đ trong quá trình giải quyết vụ án cho biết: Chị Nguyễn Thị H là con đẻ của ông Nguyễn Văn Đ. Giữa gia đình chị và vợ chồng bà Trần Thị P, ông Nguyễn Văn X đều là người ở cùng địa phương xã T, huyện K. Do vợ chồng bà P, ông X cần tiền vốn để đầu tư, làm ăn, kinh doanh, buôn bán nên có nhiều lần vay tiền của chị H. Cụ thể: - Ngày 11/7/2015 vay số tiền 150.000.000đ. - Ngày 14/3/2016 vay số tiền 50.000.000đ. - Ngày 30/7/2016 vay số tiền 72.000.000đ. - Ngày 20/4/2016 vay số tiền 50.000.000đ (Chuyển khoản từ tài khoản của chị H tại Ngân hàng V qua tài khoản số 240820521xxx5 của bà Trần Thị P tại Ngân hàng N - Chi nhánh tại huyện K). - Đối với số tiền 8.440.000đ chuyển khoản từ tài khoản của chị H tại Ngân hàng V qua tài khoản số 240820521xxx5 của bà Trần Thị P tại Ngân hàng N - Chi nhánh tại huyện K ngày 14/10/2016. Tại đơn khởi kiện ban đầu chị H không đề nghị. Tuy nhiên, sau khi thụ lý chị H đã khai bổ sung trong bản tự khai chuyển Tòa án. Trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của chị H là ông Đ đã xin rút yêu cầu, đề nghị không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết đối với số tiền này. Do đó tổng vợ chồng bà P, ông X đã vay của chị H số tiền gốc là 322.000.000đ. Chị H xác định đây là tiền riêng của chị, không liên quan đến anh Hoàng P1 chồng chị. Phía nguyên đơn xác định việc vay trên do bà P trực tiếp đứng ra vay và ký vào giấy biên nhận vay tiền, đồng thời là người trực tiếp nhận tiền nhưng không cầm cố, thế chấp bằng tài sản, đồ vật gì. Khi vay bà P xác định dùng để đầu tư, kinh doanh trong gia đình và thực tế mọi công việc kinh doanh trong gia đình do bà P trực tiếp quản lý, thực hiện nên bà P báo có trách nhiệm về tự bàn bạc, nói chuyện gia đình với ông X, không cần ông X phải có mặt nên đồng thời bà P ký giấy thay cả phần tên ông X trong giấy vay. Lãi suất hai bên thỏa thuận, bà P tự nguyện ghi nhận trong giấy vay là 1,8%/tháng, thời hạn vay không ghi kỳ hạn mà khi cần lấy lại hai bên sẽ trao đổi, báo trước để bà P thu xếp. Tuy nhiên, sau khi vay bà P, ông X không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cả gốc, lãi. Khi chị H nhắc nhở thì bà P chỉ khất, bảo điều kiện làm ăn của gia đình bà hiện gặp khó khăn nên chị H để tạm gác lại để vợ chồng bà P, ông X thu xếp. Tuy nhiên, sau đó không có sự chuyển biến, động thái gì trong việc tích cực trả nợ, đồng thời qua nắm bắt thông tin được biết vợ chồng bà P, ông X hiện còn nợ rất nhiều người trong địa bàn xã T, cũng như các xã xung quanh. Nay chị H đề nghị Tòa án giải quyết buộc vợ chồng bà P, ông X phải có trách nhiệm liên đới trả ngay cho chị số tiền gốc còn nợ đến nay tổng là 322.000.000đ. Do xác định do bận công việc nên chị H xin ủy quyền lại cho ông Đỗ Văn B sẽ đại diện thay mặt để trình bày, làm đơn đề nghị toàn bộ các thủ tục tố tụng liên quan khác theo quy định. Tại đơn khởi kiện và bản tự khai ban đầu chuyển Tòa án, chị H yêu cầu phải trả lãi nhưng sau đó trong quá trình giải quyết đại diện theo ủy quyền của chị H là ông Đ đã có quan điểm thay đổi, xác định lại riêng tiền lãi của số tiền nợ gốc trên đến nay không yêu cầu trả và không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết. Đối với chi phí tố tụng khác (chi phí giám định chữ ký, chữ viết) phía nguyên đơn xin tự chịu trách nhiệm thanh toán, chi trả, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.
Lời khai, quan điểm của đồng bị đơn là ông Nguyễn Văn X đưa ra trong quá trình giải quyết vụ án: Ông là chồng của bà Trần Thị P, sinh năm 1971 hiện ở thôn C, xã T, huyện K, tỉnh Hưng Yên. Ông và bà P kết hôn, có đăng ký theo quy định của pháp luật tại UBND xã T rồi về chung sống từ khoảng năm 1987 đến nay và đã có với nhau 03 con chung. Giữa vợ chồng ông và chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1977; Quê quán tại thôn E, xã T, huyện K, tỉnh Hưng Yên; Hiện ở: thành phố V, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu có quan hệ quen biết (Ông biết chị H là con của ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1950 và bà Đinh Thị M, sinh năm 1952 ở thôn E, xã T, huyện K, tỉnh Hưng Yên). Vợ chồng ông mở cửa hàng kinh doanh vàng bạc từ khoảng năm 2009. Trong đó mọi quán xuyến trong công việc kinh doanh, nắm kinh tế gia đình đều do bà P quản lý, quyết định. Việc bà P huy động vốn của những ai do bà P tự quyết định nên việc bà P có vay tiền của chị H hay không và vay với tiền bao nhiêu bản thân ông không rõ, ông không trực tiếp tham gia. Đối với các giấy vay phía chị H cung cấp cho Tòa án mà ông đã được xem lại, ông xác định trong đó không có chữ ký của ông, còn việc có chữ ký của bà P hay không thì ông không rõ. Ông đi làm bảo vệ tại bệnh viện Đ1 từ năm 2019 đến nay và chỉ thỉnh thoảng ông mới về nhà khi gia đình có công việc. Nay chị H thông qua đại diện là ông Đ khởi kiện đến Tòa án đề nghị giải quyết buộc vợ chồng ông phải trả các khoản nợ đã vay, tổng số tiền là 322.000.000đ. Quan điểm của ông xác định đối với khoản nợ trên của chị H ông không biết, còn nếu có khoản nợ trên mà bà P vay thì ông sẽ cố gắng để cùng với bà P trong công việc trả nợ, còn hiện tại điều kiện làm ăn, kinh tế của gia đình ông hiện khó khăn nên chỉ xin được thu xếp trả nợ dần. Đồng thời ông xác định quan điểm không có gì khác, do bận công việc nên ông có đơn đề nghị Tòa án không báo ông đến làm việc, hòa giải nữa mà giải quyết, xét xử vắng mặt ông theo quan điểm ông đã trình bày.
Lời khai, quan điểm của đồng bị đơn là bà Trần Thị P trong quá trình giải quyết vụ án cho biết: - Tại Biên bản làm việc ngày 27/12/2023, ngày 17/5/2024 và ngày 20/6/2024, bà P xác định: Bà xác định bà có ký vào giấy nợ tiền của chị Nguyễn Thị H nhưng do không có chữ ký của ông X chồng bà nên chị H không đưa tiền cho bà. Do đó bà không nợ tiền chị H và không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H, đồng thời bà không nhận quyết định, thông báo và không ký vào bất cứ biên bản nào của Tòa án. Đồng thời không đến làm việc theo giấy báo của Tòa án.
Nội dung quan điểm của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Hoàng P1 cho biết: Nội dung liên quan thống nhất như quan điểm chị Nguyễn Thị H đã cung cấp, trình bày. Ông xác định số tiền chị H cho vợ chồng bà P, ông X vay là tiền riêng của chị H và ông nhất trí với quan điểm, yêu cầu khởi kiện của chị H và ông Đ. Do không có ý kiến gì khác nên ông đề nghị Tòa án giải quyết, xét xử vắng mặt ông theo quy định.
Theo tài liệu Tòa án xác minh, thu thập: - Kết luận giám định số: 134/KL-KTHS ngày 15/3/2024 của Phòng K Công an tỉnh H xác định: Chữ ký, chữ viết dưới mục “Người vay” trên: Giấy biên nhận vay tiền, ghi ngày 30/7/2016, vay của Nguyễn Thị H số tiền 72.000.000đ; Giấy biên nhận vay tiền, ghi ngày 14/3/2016, vay của Nguyễn Thị H số tiền 50.000.000đ; Giấy biên nhận vay tiền, ghi ngày 11/7/2015, vay của Nguyễn Thị H số tiền 150.000.000đ so với chữ ký, chữ viết của Trần Thị P dưới mục “NGƯỜI NHẬN GIẤY MỜI” trên GIẤY MỜI của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện K, lập ngày 26/01/2024 là do cùng một người ký, viết ra. - Nội dung xác minh tại chính quyền địa phương xã T và đại diện cơ sở thôn D cho biết: Ông Nguyễn Văn X, sinh năm 1966 và bà Trần Thị P, sinh năm 1971 đều thường trú tại thôn C, xã T, huyện K, tỉnh Hưng Yên. Ông P và bà X kết hôn rồi về chung sống tại địa phương xã T, đồng thời có đăng ký kết hôn theo quy định tại UBND xã T vào ngày 30/01/1991 (số thứ tự 12). Vợ chồng bà P, ông X kinh doanh tại thôn D, xã T nhưng do công việc kinh doanh gặp khó khăn nên mặc dù cửa hàng còn giảng biển hiệu nhưng ít giao dịch, hàng ngày bà P vẫn thường xuyên xuống cửa hàng, tối lại về nhà ở thôn C, xã T. Đối với ông X do gia đình gặp khó khăn về kinh tế nên đi làm bảo vệ trên thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, khi có công việc gia đình, họ hàng ông vẫn có mặt đầy đủ. - Công văn số: 613/NHNokC-TH ngày 10/7/2024 của Ngân hàng N - Chi nhánh huyện K cung cấp thông tin cho biết: Thông tin đăng ký chủ tài khoản của số tài khoản 240820521xxx5 tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện N đứng tên chủ tài khoản là: Trần Thị P - CMTND: 145666249, cấp ngày 15/4/2011, nơi cấp: Hưng Yên; Địa chỉ: Xã T, huyện K, tỉnh Hưng Yên. Việc giao dịch, chuyển tiền vào ngày 20/4/2016 và ngày 14/10/2016 như thông tin của người khởi kiện (chị Nguyễn Thị H) cung cấp là đúng.
Tại phiên tòa hôm nay: - Nguyên đơn chị Nguyễn Thị H và đại diện theo ủy quyền là ông Nguyễn Văn Đ, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Hoàng P1 đều vắng mặt nhưng đều đã có đơn đề nghị giải quyết, xét xử vắng mặt và giữ nguyên quan điểm như đã trình bày trong quá trình giải quyết vụ án. - Đồng bị đơn bà Trần Thị P và ông Nguyễn Văn X vắng mặt tại phiên tòa và không có ý kiến, quan điểm, tài liệu nào khác chuyển Tòa án. - Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Khoái Châu tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: + Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, HDXX, Thư ký: Thẩm phán TAND huyện Khoái Châu đã thụ lý giải quyết vụ án đúng thẩm quyền; Xác định đúng quan hệ pháp luật có tranh chấp; Xác định đúng, đủ tư cách tham gia tố tụng. Trong quá trình giải quyết vụ án, thẩm phán đã tiến hành tố tụng và cấp tống đạt các văn bản tố tụng cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp đúng theo quy định của BLTTDS; HDXX, thư ký không thuộc trường hợp phải thay đổi, thủ tục tố tụng tại phiên tòa đảm bảo đúng quy định. + Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án; Bị đơn chưa chấp hành đúng quy định pháp luật tố tụng Dân sự, vi phạm quy định tại khoản 16 Điều 70 BLTTDS. + Về áp dụng pháp luật: Điều 25, Điều 27, Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 275, Điều 280, Điều 357, Điều 429, Điều 155, Điều 463, Điều 466, Điều 468, Điều 469 của Bộ luật Dân sự; khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 3 Điều 144; khoản 1 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. + Về đường lối giải quyết: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H. - Buộc bà Trần Thị P và ông Nguyễn Văn X phải có trách nhiệm liên đới trả ngay cho chị H tổng số tiền gốc còn nợ là 322.000.000đ. Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật, chị H có đơn yêu cầu thi hành án hợp pháp, cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án mà bên bị thi hành án không thi hành khoản tiền trên, thì phải trả lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo quy định tại Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015. - Đối với tiền lãi của số tiền nợ gốc: Không đặt ra xem xét, giải quyết. - Chi phí tố tụng khác: Nguyên đơn không yêu cầu đồng bị đơn phải thanh toán trả tiền chi phí giám định chữ ký, chữ viết, không yêu cầu xem xét, giải quyết nên không đặt ra giải quyết. + Về án phí: Nguyên đơn (chị H) không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm nên được hoàn trả số tiền tạm ứng án phí. Đồng bị đơn (bà P, ông X) phải liên đới chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: [1]. Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn, người đại diện theo quyền của nguyên đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và đồng bị đơn đều vắng mặt tại phiên tòa. Tuy nhiên, đại diện theo ủy quyền của chị H là ông Đ và đồng bị đơn là ông X, cùng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông P1 đều đã có đơn đề nghị Tòa án giải quyết, xét xử vắng mặt, còn bà P vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 không có lý do dù đã được Tòa án thông báo, triệu tập hợp lệ nên không thuộc trường hợp phải hoãn phiên tòa. Căn cứ Điều 227, Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo luật định. [2]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị Nguyễn Thị H khởi kiện yêu cầu bà Trần Thị P và ông Nguyễn Văn X phải liên đới trả số tiền nợ gốc do không thực hiện nghĩa vụ trả nợ tiền vay nên quan hệ pháp luật tranh chấp xác định là “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. [3]. Thẩm quyền giải quyết vụ án: Đồng bị đơn thường trú tại xã T, huyện K, tỉnh Hưng Yên; Nội dung, đối tượng khởi kiện là “Hợp đồng vay tài sản”, căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự nên Tòa án nhân dân huyện Khoái Châu tỉnh Hưng Yên thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền. [4]. Về thời hiệu khởi kiện: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả nợ đối với số tiền nợ gốc đã vay, còn tiền lãi không yêu cầu. Vì vậy, căn cứ theo khoản 2 Điều 155, Điều 429 của Bộ luật Dân sự, xác định “Không áp dụng thời hiệu đối với yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu...”; Ngoài ra theo Công văn số: 443/VKSTC-V9 ngày 15/02/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn, xác định: “Đối với yêu cầu trả tiền nợ gốc thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện”. [5]. Nội dung và trách nhiệm trả nợ: Quan điểm của chị H yêu cầu vợ chồng bà P, ông X phải có trách nhiệm liên đới trả ngay cho chị tổng số tiền gốc còn nợ là 322.000.000đ. Riêng tiền lãi của số tiền gốc trên đến nay chị không yêu cầu trả nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết. Xét yêu cầu của nguyên đơn là có căn cứ do: - Nguyên đơn đã cung cấp được bản chính: Giấy biên nhận vay tiền, ghi ngày 30/7/2016, vay của Nguyễn Thị H số tiền 72.000.000đ; Giấy biên nhận vay tiền, ghi ngày 14/3/2016, vay của Nguyễn Thị H số tiền 50.000.000đ; Giấy biên nhận vay tiền, ghi ngày 11/7/2015, vay của Nguyễn Thị H số tiền 150.000.000đ; Sao kê tài khoản, chứng từ giao dịch có xác nhận của Ngân hàng TMCP N1 - Chi nhánh V1 (V) về việc chuyển khoản từ số tài khoản 008100119xx34 đứng tên chủ tài khoản Nguyễn Thị H tới số tài khoản 240820521xxx5 đứng tên chủ tài khoản là Trần Thị P tại Ngân hàng N huyện K với số tiền 50.000.000đ vào ngày 20/4/2016, nội dung thể hiện: Cháu H chuyển cho cô P vay lãi 1,8 hàng tháng. Phù hợp với yêu cầu khởi kiện với tổng số tiền gốc nợ là 322.000.000đ. Đồng thời chị H và anh P1 đều xác định đây là tiền riêng của chị H. - Các giấy biên nhận vay tiền đều được in theo mẫu chung từ trước, phù hợp mục đích huy động vốn, kinh doanh của gia đình. - Công văn số: 613/NHNokC-TH ngày 10/7/2024 của Ngân hàng N - Chi nhánh huyện K cung cấp thông tin: Thông tin đăng ký chủ tài khoản của số tài khoản 240820521xxx5 tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện N đứng tên: Trần Thị P - CMTND: 145666249, cấp ngày 15/4/2011, nơi cấp: Hưng Yên; Địa chỉ: Xã T, huyện K, tỉnh Hưng Yên. Việc giao dịch, chuyển tiền vào ngày 20/4/2016 và ngày 14/10/2016 như thông tin của người khởi kiện (chị Nguyễn Thị H) cung cấp là đúng. - Kết luận giám định số: 134/KL-KTHS ngày 15/3/2024 của Phòng K Công an tỉnh H xác định: Chữ ký, chữ viết dưới mục “Người vay” trên: Các giấy biên nhận vay tiền, ghi ngày 30/7/2016, ngày 14/3/2016, ngày 11/7/2015 so với chữ ký, chữ viết của Trần Thị P dưới mục “NGƯỜI NHẬN GIẤY MỜI” trên GIẤY MỜI của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện K, lập ngày 26/01/2024 là do cùng một người ký, viết ra. - Đồng bị đơn là ông Nguyễn Văn X xác định: Ông và bà P kết hôn, có đăng ký theo quy định của pháp luật tại UBND xã T rồi về chung sống từ khoảng năm 1987 đến nay. Giữa vợ chồng ông và chị Nguyễn Thị H có quan hệ quen biết (Ông biết chị H là con của ông Nguyễn Văn Đ). Vợ chồng ông mở cửa hàng kinh doanh vàng bạc từ khoảng năm 2009. Trong đó mọi quán xuyến trong công việc kinh doanh, nắm kinh tế gia đình đều do bà P quản lý, quyết định. Việc bà P huy động vốn của những ai do bà P tự quyết định nên việc bà P có vay tiền của chị H hay không và vay với tiền bao nhiêu bản thân ông không rõ, ông không trực tiếp tham gia. Đối với các giấy vay phía chị H cung cấp cho Tòa án mà ông đã được xem lại, ông xác định trong đó không có chữ ký của ông, còn việc có chữ ký của bà P hay không thì ông không rõ. Nay chị H thông qua đại diện là ông Đ khởi kiện đến Tòa án đề nghị giải quyết buộc vợ chồng ông phải trả các khoản nợ đã vay, tổng số tiền là 322.000.000đ. Quan điểm của ông là ông không biết, còn nếu có khoản nợ trên mà bà P vay thì ông sẽ cố gắng để cùng với bà P trong công việc trả nợ, còn hiện tại điều kiện làm ăn, kinh tế của gia đình ông hiện khó khăn nên chỉ xin được thu xếp trả nợ dần. - Kết quả xác minh tại chính quyền địa phương và cơ sở thôn cho thấy về quan hệ hôn nhân thống nhất, phù hợp với lời khai của đương sự. Do đó, việc đồng bị đơn là bà Trần Thị P xác định bà có ký giấy vay tiền trên nhưng vì không có chữ ký của ông X nên chị H không đưa tiền cho bà nên bà không chấp nhận yêu cầu khởi kiện là không có căn cứ chấp nhận. Cần xác định bà P có vay, tiếp nhận số tiền gốc như trên và mục đích vay để sử dụng vào việc kinh doanh, đầu tư chung của gia đình. Căn cứ Điều 25, Điều 27 của Luật Hôn nhân và gia đình cần xác định trách nhiệm trả nợ đối với khoản nợ là trách nhiệm liên đới của bà P, ông X. Từ những căn cứ trên, Hội đồng xét xử xét thấy toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu trả số tiền nợ gốc là có căn cứ, được chấp nhận nên cần buộc bà P, ông X phải có trách nhiệm liên đới trả nợ cho chị H số tiền nợ gốc là 322.000.000đ. Riêng tiền lãi của số tiền gốc trên đến nay chị H không yêu cầu trả, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết nên Tòa án không đặt ra giải quyết. Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật, chị H có đơn yêu cầu thi hành án hợp pháp, cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án mà bên bị thi hành án không thi hành khoản tiền trên, thì phải trả lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo quy định tại Điều 357 Bộ luật dân sự. - Chi phí tố tụng khác: Nguyên đơn không yêu cầu đồng bị đơn phải thanh toán trả tiền chi phí giám định chữ ký, chữ viết, không yêu cầu xem xét, giải quyết nên không đặt ra giải quyết. [6]. Về án phí: Căn cứ khoản 3 Điều 144, Điều 147 của BLTTDS; Điều 26 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án để xử lý về tạm ứng án phí, án phí như sau: - Toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, được hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí là 8.050.000đ (ông Đ đã nộp thay chị H). - Bà Trần Thị P và ông Nguyễn Văn X phải liên đới chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với giá trị tài sản tranh chấp trong vụ án được xác định như sau: 322.000.000đ x 5% = 16.100.000đ. [7]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Điều luật áp dụng: Điều 25, Điều 27, Điều 37 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 275, Điều 280, Điều 357, Điều 429, Điều 155, Điều 463, Điều 466, Điều 468, Điều 469 của Bộ luật Dân sự; khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 3 Điều 144; khoản 1 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
2. Xử: - Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H. - Buộc bà Trần Thị P và ông Nguyễn Văn X phải có trách nhiệm liên đới trả ngay cho chị H tổng số tiền gốc còn nợ là 322.000.000đ (Ba trăm hai mươi hai triệu đồng). Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật, chị H có đơn yêu cầu thi hành án hợp pháp, cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án mà bên bị thi hành án không thi hành khoản tiền trên, thì phải trả lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo quy định tại Điều 357 Bộ luật dân sự.
3. Về án phí: - Hoàn trả lại cho chị Nguyễn Thị H số tiền 8.050.000đ (Bằng chữ: Tám triệu, không trăm năm mươi nghìn đồng) tạm ứng án phí (ông Nguyễn Văn Đ đã nộp thay chị Nguyễn Thị H) theo biên lai thu số 0008426 ngày 21/7/2023 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Khoái Châu. - Bà Trần Thị P và ông Nguyễn Văn X phải có trách nhiệm liên đới chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm là 16.100.000đ (Mười sáu triệu, một trăm nghìn đồng).
4. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm báo cho đương sự (vắng mặt tại phiên tòa) có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được tống đạt, niêm yết hợp lệ. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 16/2024/DS-ST
Số hiệu: | 16/2024/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Khoái Châu - Hưng Yên |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 25/07/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về