Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 15/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NGÃ NĂM, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 15/2022/DS-ST NGÀY 11/03/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong ngày 11 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 164/2021/TLST- DS, ngày 23 tháng 12 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2022/QĐXXST-DS ngày 24 tháng 01 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Lưu Văn H, sinh năm: 1982.

Địa chỉ: Ấp ..., xã TT, huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: anh Nguyễn Văn U, sinh năm 1984, địa chỉ: khóm ..., phường ..., thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

- Bị đơn: 1. Bà Phạm Thị Đ, sinh năm 1969 (vắng mặt).

2. Ông Phạm Văn C, sinh năm 1967 (vắng mặt).

Cùng địa chỉ: ấp MP, xã MB, thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện lập ngày 26/5/2021, trong quá trình xét xử, nguyên đơn ông Lưu Văn H và người đại diện của nguyên đơn trình bày:

Vào ngày 10/5/2021, ông có cho vợ chồng ông Phạm Văn C và bà Phạm Thị Đ vay số tiền 1.500.000.000 đồng (một tỷ năm trăm triệu đồng), mục đích vay tiền là ông Công đáo nợ Ngân hàng, vì chỗ bạn bè nên việc vay tiền không tính lãi suất, phía ông Công hứa 02 ngày sẽ hoàn trả lại tiền vay, việc vay tiền hai bên có làm tờ biên nhận đề ngày 10/5/2021. Sau đó đến ngày 13/5/2021, đã quá hạn cam kết trả tiền ông có yêu cầu ông Công trả tiền vay nhưng ông hứa hẹn mà không thực hiện. Nay ông khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: buộc vợ chồng ông Công và bà Đèo trả số tiền vốn vay 1.500.000.000 đồng (một tỷ năm trăm triệu đồng) và tiền lãi chậm thực hiện nghĩa vụ tính từ ngày 13/5/2021 đến ngày xét xử sơ thẩm là ngày 11/3/2022 theo mức lãi suất là 10%/năm.

Tại biên bản lấy lời khai lập ngày 08/02/2022 của Tòa án nhân dân thị xã Ngã Năm, bị đơn ông Phạm Văn C và bà Phạm Thị Đ thống nhất trình bày:

Ông. bà thừa nhận ngày 10/5/2021 có vay của ông Lưu Văn H số tiền 1.500.000.000 đồng (một tỷ năm trăm triệu đồng), ông Công có ký tên vào tờ biên nhận lập ngày 10/5/2021. Mục đích vợ chồng bà vay tiền là cho một người bạn mượn lại để đáo nợ Ngân hàng, nhưng sau đó người này không trả tiền cho vợ chồng bà nên đến nay vợ chồng bà chưa thanh toán nợ cho ông Hùng. Kể từ khi vay tiền đến nay, ông bà có trả cho ông Hùng được số tiền 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng).

Ông, bà thống nhất với yêu cầu khởi kiện của ông Hùng, nhưng vì hoàn cảnh gia đình đang khó khăn tài chính nên ông, bà chưa có điều kiện thanh toán nợ cho ông Hùng.

Tại phiên tòa, vị Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Thẩm phán thụ lý vụ án, xác định quan hệ pháp luật, xác định tư cách đương sự, thu thập chứng cứ và đưa vụ án ra xét xử đúng trình tự thủ tục của Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử đúng thành phần, thực hiện đầy đủ các thủ tục, trình tự khi xét xử vụ án. Các đương sự chấp hành tốt nội quy phiên tòa và quy định của pháp luật.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lưu Văn H, buộc các bị đơn ông Phạm Văn C và bà Phạm Thị Đ cùng có nghĩa vụ trả cho ông Hùng số tiền vay 1.450.000.000 đồng (một tỷ, bốn trăm năm mươi triệu đồng) và tiền lãi chậm thực hiện nghĩa vụ tính từ ngày 13/5/2021 đến ngày xét xử sơ thẩm là ngày 11/3/2022, theo mức lãi suất 10%/tháng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (sau đây viết tắt là HĐXX) nhận định:

Xét về thủ tục tố tụng:

[1]. Các bị đơn bà Phạm Thị Đ và ông Phạm Văn C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của BLTTDS quyết định xét xử vắng mặt những người nêu trên.

[2]. Người đại diện của nguyên đơn xin thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện về số tiền vốn các bị đơn phải thanh toán là 1.450.000.000 đồng, vì các bị đơn có thanh toán số tiền 50.000.000 đồng. HĐXX nhận thấy việc đại diện nguyên đơn thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện nêu trên là phù hợp với quy định tại Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 (sau đây viết tắt là BLTTDS), nên được chấp nhận.

Xét về nội dung vụ án:

[3]. Qua xem xét “giấy mượn tiền” lập ngày 10/5/2021, nguyên đơn cung cấp cho Tòa án nội dung thể hiện: Ông Phạm Văn C có mượn (vay không lãi) của ông Hùng số tiền 1.500.000.000 đồng (một tỷ năm trăm triệu đồng), mục đích vay tiền là đáo nợ Ngân hàng và thời hạn trả tiền là 02 ngày, cuối tờ biên nhận có ký tên là Phạm Văn C. Phía vợ chồng ông Công và bà Đèo đều thống nhất xác nhận vợ chồng bà có vay của ông Hùng số tiền nêu trên, nhưng tính đến nay có thanh toán cho phía ông Hùng được 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng). Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn thống nhất xác nhận: Ông Hùng có nhận của ông Công, bà Đèo số tiền 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng), hiện tại ông, bà chỉ còn nợ lại 1.450.000.000 đồng (một tỷ, bốn trăm năm mươi triệu đồng). Lời thừa nhận của các đương sự nêu trên là tình tiết không cần phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[4]. Xét thấy, ông Công và bà Đèo có nợ ông Hùng số tiền vay 1.450.000.000 đồng (một tỷ, bốn trăm năm mươi triệu đồng) đã quá thời hạn thanh toán nhưng ông, bà lại không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả tiền là vi phạm hợp đồng, theo quy định tại khoản 1 Điều 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Vì vậy, việc ông Hùng khởi kiện yêu cầu thanh toán tiền vốn vay là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Về số tiền lãi chậm thực hiện nghĩa vụ ông Hùng yêu cầu thanh toán theo mức lãi suất pháp luật quy định là 10%/năm là có cơ sở, cụ thể số tiền lãi tính từ ngày 13/5/2021 đến ngày xét xử là ngày 11/03/2022 như sau: 1.450.000.000 đồng x 0,83%/tháng x 09 tháng 26 ngày = 118.745.300 đồng (một trăm mười tám triệu, bảy trăm bốn mươi lăm ngàn, ba trăm đồng).

[5]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Công và bà Đèo cùng phải chịu án phí với số tiền là 59.062.300 đồng (năm mươi chín triệu, không trăm sáu mươi hai ngàn, ba trăm đồng) theo quy định tại khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016, của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Ông Lưu Văn H không phải chịu án phí.

[6]. Đề nghị của vị Kiểm sát viên về hướng giải quyết vụ án nêu trên là phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 357 và khoản 1 Điều 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016, của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1/. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lưu Văn H:

Buộc ông Phạm Văn C và bà Phạm Thị Đ cùng có nghĩa vụ liên đới trả cho ông Lưu Văn H số tiền vốn vay là 1.450.000.000 đồng (một tỷ, bốn trăm năm mươi triệu đồng) và tiền lãi chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán tính từ ngày 13/5/2021 đến ngày 11/03/2022 là 118.745.300 đồng (một trăm mười tám triệu, bảy trăm bốn mươi lăm ngàn, ba trăm đồng).

2/ Kể từ ngày ông Lưu Văn H có đơn yêu cầu thi hành án đối với số tiền nêu trên, thì ông Phạm Văn C và bà Phạm Thị Đ còn phải chịu tiền lãi do chậm thi hành án, theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự, tương ứng với thời gian và số tiền chậm trả.

3/. Ông Phạm Văn C và bà Phạm Thị Đ cùng có nghĩa vụ phải nộp tiền án phí với số tiền 59.062.300 đồng (năm mươi chín triệu, không trăm sáu mươi hai ngàn, ba trăm đồng) Ông Lưu Văn H không phải chịu án phí, ông được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp 28.581.000 đồng (hai mươi tám triệu, năm trăm tám mươi mốt ngàn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0002534 ngày 23/12/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng.

4/. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Riêng đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn nêu trên được tính kể từ ngày nhận được bản án, hoặc kể từ ngày niêm yết hợp lệ bản án.

5/ Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 15/2022/DS-ST

Số hiệu:15/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ngã Năm - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 11/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;