Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 12/2022/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ XUYÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 12/2022/DS-ST NGÀY 25/05/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong ngày 25 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở TAND huyện Phú Xuyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 05/2022/TLST-DS ngày 24 tháng 3 năm 2022 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2022/QĐXX-ST ngày 26 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 19/2022/QĐST-DS ngày 10/5/2022 giữa các đương sự:

* Đồng nguyên đơn: Bà Trịnh Thị Hg, sinh năm 1962, ông Trần Đình Hc, sinh năm 1960

Đều có HKTT: Đội 1, thôn Đặng Xá, xã Vạn Điểm, huyện Thường Tín, Thành phố Hà Nội.

* Đồng bị đơn:

- Bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1964 Hộ khẩu thường trú: Tiểu khu Phú Thịnh, thị trấn Phú Minh, huyện Phú xuyên, Thành phố Hà Nội.

- Ông Phùng Văn H2, sinh năm 1960 Hộ khẩu thường trú: Số 7, ngách 65, ngõ G, phường OCD, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội.

Bà Hg, ông Hc, bà H1 có mặt; ông Phùng Văn H2 vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đòi nợ bà Trịnh Thị Hg, ông Trần Đình Hc và những lời khai tại tòa bà Hg, ông Hc trình bày:

Do vợ chồng bà Nguyễn Thị H1 và ông Phùng Văn H2, ở tiểu khu Phú Thịnh, thị trấn Phú Minh, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội có mở cửa hàng vàng bạc kinh doanh nên:

- Ngày 16/4/2011 bà Hg có gửi bà H1 01 cây vàng SJC và 04 cây vàng nhẫn, lãi xuất 30.000đồng/01chỉ/01 tháng, kỳ hạn 06 tháng, rút trước không có lãi.

- Ngày 26/8/2011 bà Hg gửi bà H1 05 cây vàng SJC, lãi xuất 30.000đồng/01chỉ/01 tháng, kỳ hạn 06 tháng.

- Ngày 20/9/2011 bà Hg gửi bà H1 05 cây vàng SJC, lãi xuất 30.000đồng/01chỉ/01 tháng, rút trước không có lãi, kỳ hạn 06 tháng.

- Ngày 24/9/2011 bà Hg gửi bà H1 05 cây vàng SJC, lãi xuất 30.000đồng/01chỉ/01 tháng, kỳ hạn 06 tháng.

Tổng 04 lần bà Hg gửi bà H1 20 cây vàng (trong đó có 16 cây vàng SJC; 04 cây vàng nhẫn), tại thời điểm đó tương đương 992.000.000 đồng (Chín trăm chín mươi hai triệu đồng), được thể hiện trên Hóa đơn bảo đảm vàng có chữ ký của bà H1 và đóng dấu của Công ty cổ phần vàng bạc đá quý H2 H1. Bà Hg đã nhiều lần đến gặp bà H1, yêu cầu bà H1 trả nợ, nhưng bà H1 không trả mà có ý thức trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Tính đến nay đã hơn 10 năm, nên bà Hg, ông Hc làm đơn khởi kiện yêu cầu vợ chồng bà H1, ông H2 phải trả 20 cây vàng (trong đó có 16 cây vàng SJC; 04 cây vàng nhẫn), số lãi bà Hg, ông Hc không yêu cầu vợ chồng bà H1, ông H1 phải trả. Số vàng mà bà Hg cho bà H1 vay là vàng của vợ chồng bà Hg, ông Hc.

Bà Nguyễn Thị H1 trình bầy: Vợ chồng bà H1 có mở cửa hàng vàng bạc kinh doanh tại nhà ở tiểu khu Phú Thịnh, thị trấn Phú Minh, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội nên:

- Ngày 16/4/2011 bà Hg có gửi bà H1 01 cây vàng SJC và 04 cây vàng nhẫn, lãi xuất 30.000đồng/01chỉ/01 tháng, kỳ hạn 06 tháng, rút trước không có lãi.

- Ngày 26/8/2011 bà Hg gửi bà H1 05 cây vàng SJC, lãi xuất 30.000đồng/01chỉ/01 tháng, kỳ hạn 06 tháng, rút trước không có lãi.

- Ngày 20/9/2011 bà Hg gửi bà H1 05 cây vàng SJC, lãi xuất 30.000đồng/01chỉ/01 tháng, kỳ hạn 06 tháng, rút trước không có lãi.

- Ngày 24/9/2011 bà Hg gửi bà H1 05 cây vàng SJC, lãi xuất 30.000đồng/01chỉ/01 tháng, kỳ hạn 06 tháng, rút trước không có lãi.

Tổng 04 lần bà Hg gửi bà H1 20 cây vàng (trong đó có 16 cây vàng SJC; 04 cây vàng nhẫn), tại thời điểm đó tương đương 992.000.000 đồng (Chín trăm chín mươi hai triệu đồng), được thể hiện trên Hóa đơn bảo đảm vàng có chữ ký của bà H1 và đóng dấu của Công ty cổ phần vàng bạc đá quý H2 H1. Sau khi bà Hg gửi số vàng trên cho bà H1, bà H1 lại cho chị Nguyễn Thị C, sinh năm 1979, ở thôn Văn Minh, xã Văn Nhân, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội vay. Do chị C đã lừa đảo vợ chồng bà H1, nên vợ chồng bà H1 không có khả năng trả được số vàng vay của bà Hg. Nay bà Hg, ông Hc yêu cầu vợ chồng bà H1 phải trả 20 cây vàng (trong đó có 16 cây vàng SJC; 04 cây vàng nhẫn), bà H1 sẽ có trách nhiệm trả bà Hg, ông Hc.

Ông Phùng Văn H2: Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật, nhưng ông H2 không có ý kiến gì về việc bà Trịnh Thị Hg, ông Trần Đình Hc khởi kiện.

Tại phiên toà:

Các đương sự đều giữ nguyên quan điểm của mình và đều đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện VKSND huyện Phú Xuyên tham gia phiên toà phát biểu về việc giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định về thủ tục tố tụng của Pháp luật TTDS trong quá trình giải quyết vụ án. Đồng nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ nghĩa vụ tố tụng; đồng bị đơn chưa chấp hành đầy đủ nghĩa vụ trả nợ của mình

Về nội dung: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; buộc bà Nguyễn Thị H1, ông Phùng Văn H2 phải trả cho bà Trịnh Thị Hg, ông Trần Đình Hc 20 cây vàng (trong đó có 16 cây vàng SJC; 04 cây vàng nhẫn), trị giá tương đương 1.320.400.000đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định.

Về tố tụng:

Việc ông Phùng Văn H2, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nhưng ông H2 vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Theo quy định tại Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

Yêu cầu khởi kiện đòi vàng giữa đồng nguyên đơn bà Trịnh Thị Hg, ông Trần Đình Hc và đồng bị đơn bà Nguyễn Thị H1 và ông Phùng Văn H2 là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của BLTTDS.

Về nội dung:

Về yêu cầu khởi kiện: Bà Trịnh Thị Hg, ông Trần Đình Hc khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc phía bị đơn bà Nguyễn Thị H1 và ông Phùng Văn H2 phải trả 20 cây vàng (trong đó có 16 cây vàng SJC; 04 cây vàng nhẫn).

Xét yêu cầu khởi kiện của bà Hg, ông Hc và các tài liệu chứng cứ do đương sự cung cấp cùng các tài liệu Tòa án thu thập, thì có căn cứ xác định bà H1 đã vay của bà Hg 20 cây vàng (trong đó có 16 cây vàng SJC; 04 cây vàng nhẫn) vào các ngày 16/4/2011, ngày 26/8/2011, ngày 20/9/2011, ngày 24/9/2011. Việc vay vàng trên giữa các bên được thể hiện trên hóa đơn bảo đảm vàng, có chữ ký của bà H1 làm căn cứ là đúng. Các bên đều thừa nhận là đúng số vàng cho nhau vay và chữ ký của mình là đúng, không có tranh chấp gì về số vàng vay.

Về người trả nợ: Trong khi bà Hg, ông Hc yêu cầu cả hai vợ chồng bà H1, ông H2 cùng trả, thì bà H1 chỉ chấp nhận để bà H1 trả với lý do, bà H1 mới là người đứng ra vay, ông H2 không liên quan gì.

Tuy nhiên, Hội đồng xét xử không chấp nhận lý do này của bà Nguyễn Thị H1 vì:

Thứ nhất: Quan hệ giữa ông Phùng Văn H2, bà Nguyễn Thị H1 là quan hệ vợ chồng, mà theo quy định Điều 219 của Bộ luật dân sự năm 2005 thì "Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất" và "Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung bằng công sức của mỗi người; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung", cho nên số vàng dù là bà H1 hay ông Phùng Văn H2 vay của nguyên đơn phải được coi là tài sản chung của vợ chồng và đương nhiên khi có công nợ phát sinh, thì nghĩa vụ trả nợ cũng là nghĩa vụ chung của vợ chồng, hơn nữa bà H1 xác nhận, sau khi bà H1 vay được số vàng trên, vợ chồng bà H1 lại cho chị Nguyễn Thị C, sinh năm 1979, ở thôn Văn Minh, xã Văn Nhân, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội vay để lấy lãi suất chênh lệnh phục vụ mục đích làm ăn kinh tế gia đình.

Thứ hai: Bà H1 còn sử dụng "Hóa đơn đảm bào vàng" của Công ty vàng bạc đá quý H2 H1 để làm giấy biên nhận gửi vàng, phía bà H1 đều xác nhận, đây là giao dịch mang tính cá nhân do bà H1 tự thực hiện chứ không sử dụng tư cách pháp nhân của Công ty do ông Phùng Văn H2 là người đại diện theo pháp luật, bởi Công ty của ông Phùng Văn H2 không có chức năng nhận gửi hoặc vay vàng. Qua xem xét đăng ký kinh doanh của Công ty, thấy Công ty vàng bạc đá quý H2 H1, đúng là không có chức năng gửi hoặc cho vay tiền, vàng. Phía nguyên đơn cũng xác nhận đem vàng gửi là gửi cá nhân chứ không gửi cho Công ty nào. Mặt khác về hình thức của hóa đơn đảm bảo vàng là để phục vụ cho hoạt động kinh doanh mua bán vàng, song nội dung của hóa đơn lại là xác nhận vàng gửi, cho vay, không liên quan gì đến mục đích, nội dung, cột, mục ghi trên hóa đơn. Nên về mặt pháp luật, Tòa chỉ xem đây là giao dịch giữa các cá nhân với nhau.

Từ những lý do trên nên buộc cả bà Nguyễn Thị H1 và ông Phùng Văn H2 phải có trách nhiệm thanh toán 20 cây vàng (trong đó có 16 cây vàng SJC; 04 cây vàng nhẫn) cho bà Trịnh Thị Hg, ông Trần Đình Hc. Tại Công ty TNHH Một thành viên vàng bạc đá quý Sài Gòn – SJC ngày 25/5/2022 giá mua: 01 cây vàng SJC có giá 69.000.000 đồng x 16 cây = 1.104.000.000 đồng đồng. 01 cây vàng nhẫn (99,99%) có giá 54.100.000 đồng x 04 cây = 216.400.000 đồng. Tổng cộng 1.320.400.000đồng (Một tỷ ba trăm hai mươi triệu bốn trăm nghìn đồng).

Đối với số tiền lãi từ khi bà Hg cho bà H1 vay cho đến nay, do phía nguyên đơn không yêu cầu Tòa giải quyết. Xét yêu cầu của nguyên đơn là tự nguyện và không trái pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về án phí: Bà Nguyễn Thị H1 và ông Phùng Văn H2 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Do bà H1, ông Phùng Văn H2 hoàn cảnh kinh tế khó khăn và có đơn xin miễn, giảm án phí , nên giảm ½ án phí dân sự sơ thẩm cho bà H1 và ông Phùng Văn H2.

Yêu cầu khởi kiện của bà Trịnh Thị Hg, ông Trần Đình Hc được pháp luật bảo vệ, nên bà Hg, ông Hc không phải chị án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí cho bà Trịnh Thị Hg, ông Trần Đình Hc đã nộp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 26, 147, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 471, 474, 476 của Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 37 của Luật Hôn nhân và gia đìnhNghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án, tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trịnh Thị Hg, ông Trần Đình Hc đối với bà Nguyễn Thị H1 và ông Phùng Văn H2.

Buộc bà Nguyễn Thị H1 và ông Phùng Văn H2 có trách nhiệm trả bà Trịnh Thị Hg, ông Trần Đình Hc 20 cây vàng (trong đó có 16 cây vàng SJC; 04 cây vàng nhẫn), trị giá tương đương 1.320.400.000đồng (Một tỷ ba trăm hai mươi triệu bốn trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày các bên có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành không thanh toán số tiền phải thanh toán, thì hàng tháng còn phải trả cho bên được thi hành số tiền lãi theo mức lãi xuất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm thi hành tương ứng với thời gian chưa thi hành.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án dân sự, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b, Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

2. Về án phí: Bà Nguyễn Thị H1 và ông Phùng Văn H2 phải chịu 25.806.000 đồng (Hai mươi lăm triệu tám trăm linh sáu nghìn đồng), án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả cho bà Trịnh Thị Hg, ông Trần Đình Hc số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 20.880.000 đồng (Hai mươi triệu tám trăm tám mươi nghìn đồng), theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2020/0047759 ngày 24/3/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội.

Án xử công khai sơ thẩm, đồng nguyên đơn, đồng bị đơn có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đồng bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

133
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 12/2022/DS-ST

Số hiệu:12/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Xuyên - Hà Nội
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;