Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 08/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN ĐỊNH, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 08/2022/DS-ST NGÀY 15/04/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 15/4/2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 43/2022/TLST - DS ngày 20/8/2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2022/QĐXXST – DS ngày 20/02/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Nguyễn Thị L, sinh năm: 1971. (Có mặt)

Địa chỉ: Thôn K, xã Y, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.

- Bị đơn: Chị Trịnh Thị H, sinh năm: 1989. (Vắng mặt)

Địa chỉ: Thôn K, xã Y, huyện Yên Định, Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 18/8/202, bản tự khai ngày 31/8/2021 và quá trình giải quyết, nguyên đơn bà Nguyễn Thị L trình bày:

Bà và chị Trịnh Thị H là hai người cùng xã quen biết nhau. Vào ngày 25/8/ 2016, chị H có hỏi vay tiền bà để làm ăn kinh doanh. Vì chỗ quen biết nên bà đồng ý cho vay 150.000.000đ, hai bên thỏa thuận lãi suất 1%/tháng. Chị H có viết giấy để lại cho bà để làm căn cứ việc vay tiền, khi đọc giấy tôi không thấy chị H ghi tiền lãi, hỏi thì chị H nói cứ trả cho chị 1%/tháng là được nên tôi không ý kiến gì.

Chị H trả cho tôi được 4 tháng lãi với số tiền là 6.000.000 đồng, số tiền bằng chữ là sáu triệu đồng chẵn. Sau đó tôi không thấy chị H trả tiền lãi nữa tôi hỏi thì chị H cứ khất và vay thêm của tôi nhiều lần nữa số lượng ít thì đã trả rồi còn số tiền vay 150.000.000 đồng thì chưa trả. Tôi đòi từ năm 2017 đến nay chị H chưa trả cho tôi đồng nào. Tôi đòi rất nhiều lần nhưng chị H cứ khất hết tháng này qua tháng khác, đến nay chưa trả cho tôi được đồng nào, cả gốc và lãi.

Vì vậy, tôi làm đơn này đề nghị TAND huyện Yên Định xem xét giải quyết cho tôi, buộc chị H phải trả nợ cho tôi cụ thể như sau: Tiền gốc 150.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu đồng); tiền lãi tôi không yêu cầu.

- Tại bản tự khai ngày 18/3/2022 và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là bà Trịnh Thị H trình bày:

Ngày 25/08/2016 tôi có vay của bà L số tiền là 150.000.000 đồng, tôi đã trả cho bà L 10.000.000 đồng còn 140.000.000 đồng nay bà L làm đơn yêu cầu tôi trả nợ. Vì điều kiện tôi khó khăn nên tôi xin trả dần hàng tháng cho bà hoặc khi nào có tôi xin trả đủ cho bà cả tổng số nợ.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, HĐXX và nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định của bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của mình. Về nội dung: Căn cứ Điều 463, 466, 469, 688 Bộ luật dân sự năm 2015. Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự. Nghị quyết 326/2016 UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc chị Trịnh Thị H phải trả nợ cho bà Nguyễn Thị L số tiền gốc là 150.000.000đ.

Về án phí: Đề nghị HĐXX xử lý theo quy định của pháp luật.

Kiến nghị khắc phục vi phạm trong quá trình giải quyết vụ án: Không.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào diễn biến tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

{1} Về tố tụng:

1.1. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Căn cứ nội dung yêu cầu khởi kiện, Tòa án nhân dân huyện Yên Định thụ lý và giải quyết vụ án tranh chấp về Hợp đồng vay tài sản là đúng quy định về thẩm quyền xét xử, theo quy định tại khoản 3 Điều 26; Điểm a khoản 1 Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

1.3. Về sự vắng mặt của bị đơn: Chị H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ 02 lần nhưng vẫn vắng mặt. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự. HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt chị H là đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

{2} Về nội dung:

2.1. Về số tiền nợ gốc 150.000.000đ:

Bà Nguyễn Thị L khẳng định vào ngày 25/8/2016 bà có cho chị H vay 150.000.000 đồng. Từ đó đến nay bà đòi nhiều lần nhưng chị H không trả. Hiện tại còn nợ lại 150.000.000đ tiền gốc. Chị Trịnh Thị H thừa nhận ngày 25/8/2016 chị có vay của bà L 150.000.000đồng đến nay chưa có điều kiện trả nợ. Như vậy, việc vay tiền bị đơn đã thừa nhận nên sự kiện vay tiền không phải chứng minh. Tuy nhiên, chị H trình bầy đã trả được 10.000.000đ tiền gốc nhưng phía nguyên đơn không thừa nhận. Quá trình giải quyết Tòa án đã triệu tập chị H nhiều lần đến Tòa để hòa giải, đối chất với bà L để làm rõ số tiền đã trả, nhưng chị H cố tình không đến Tòa làm việc và không xuất trình chứng cứ chứng minh cho việc trả nợ. Như vậy, việc chị H trình bầy đã trả được 10.000.000đ là không có căn cứ. Do đó cần buộc chị H phải trả số tiền đã vay là 150.000.000đ cho bà L.

2.2. Về lãi suất: Khi vay hai bên thỏa thuận 1%/tháng, thời gian đầu chị H có trả lãi cho bà L, Khi làm đơn khởi kiện bà L không yêu cầu tính lãi. Tại phiên tòa bà L vẫn không yêu cầu tính lãi nên HĐXX không xem xét.

2.4. Về án phí: Yêu cầu của bà L được chấp nhận, nên không phải chịu tiền án phí. chị H phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm như sau: 150.000.000đ x 5% = 7.500.000đ Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 463, Điều 466, Điều 469, Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015; Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về án phí và danh mục mức án phí ban hành kèm theo Nghị quyết.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị L.

Buộc Trịnh Thị H phải thanh toán nợ cho bà Nguyễn Thị L, số tiền nợ gốc là 150.000.000đ. (Một trăm năm mươi triệu đồng) Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, chị H còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại điều khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

Về án phí: Chị H phải chịu 7.500.000đ (bảy triệu năm trăm nghìn đồng.) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Trả lại cho bà Nguyễn Thị L số tạm ứng án phí 3.750.000đồng (Ba triệu, bảy trăm, năm mươi nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số AA/2019/0005540 ngày 20/8/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Định.

Về quyền kháng cáo: Tuyên quyền kháng cáo bản án cho bà Hiền trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Chị Trịnh Thị H vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014.Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 08/2022/DS-ST

Số hiệu:08/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Định - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 15/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;