Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 04/2022/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC YÊN, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 04/2022/DS-ST NGÀY 19/05/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 05/2022/TLST- DS 08- 3-2022 về việc: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2022/QĐXXST-DS ngày 22-4-2022; Quyết định hoãn phiên tòa số: 05/2022/QĐST-DS ngày 06-5-2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị P, sinh năm 1977 Địa chỉ: Thôn B, xã V, huyện L, tỉnh Yên Bái.

2. Bị đơn: Chị Hoàng Thị S, sinh năm 1971 Địa chỉ: Thôn K, xã M, huyện L, tỉnh Yên Bái. Các đương sự đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Hoàng Thị P trình bày:

Ngày 26-12-2018, chị Hoàng Thị S có vay của chị số tiền là 43.000.000 đồng. Chị S có viết giấy vay tiền và hẹn đến ngày 26-12-2019 sẽ trả số tiền đã vay và hứa trả tiền lãi hàng tháng là 1.000.000 đồng. Tuy nhiên đến thời hạn trả nợ chị S không trả tiền nợ gốc và tiền lãi hàng tháng như đã cam kết. Chị đã nhiều lần yêu cầu chị S phải trả số tiền đã vay nhưng chị S không thực hiện. Chị P yêu cầu Tòa án giải quyết buộc chị S phải trả số tiền nợ là 43.000.000 đồng và tiền lãi theo quy định. Tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án Chị P rút yêu cầu tính tiền lãi trên nợ gốc.

- Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là chị Hoàng Thị S đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng đều vắng mặt và không có ý kiến thể hiện trong hồ sơ vụ án.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa:

- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử đã xác định đúng quan hệ pháp luật, tiến hành xét xử vụ án đúng trình tự tố tụng, đảm bảo đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của các đương sự.

- Về nội dung: Căn cứ Điều 147, Điều 244 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Căn cứ các Điều 357, Điều 463, Điều 466, Điều 468 của Bộ luật dân sự;

Căn cứ Điều khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hoàng Thị P. Buộc chị Hoàng Thị S phải trả cho chị Hoàng Thị P số tiền là: 43.000.000 đồng (Bốn mươi ba triệu đồng)

+ Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu tính tiền lãi trên nợ gốc của nguyên đơn.

+ Về án phí: Nguyên đơn không phải chịu tiền án phí và được trả lại tiền tạm ứng án phí đã nộp. Bị đơn phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

+ Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án dân sự về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”. Bị đơn chị Hoàng Thị S có nơi cư trú tại xã Minh Tiến, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái nên theo quy định tại khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái.

Tại phiên tòa, Chị Hoàng Thị P vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; chị Hoàng Thị S được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về nội dung yêu cầu khởi kiện:

[2.1] Về yêu cầu trả tiền nợ gốc: Ngày 26-12-2018, chị Hoàng Thị S có vay của chị Hoàng Thị P số tiền là 43.000.000 và có lập giấy vay tiền, cam kết thời hạn trả tiền là ngày 26-12-2019, do đó có đủ căn cứ xác định các bên đã xác lập quan hệ pháp luật về vay tài sản. Xét thấy giấy vay tiền ngày 26-12-2018 là một hình thức của hợp đồng vay tài sản có kỳ hạn. Các bên tham gia giao kết hợp đồng đều là người có đủ năng lực hành vi dân sự, việc giao kết hợp đồng là hoàn toàn tự nguyện nên làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên nên các bên phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Việc chị S đến hạn không trả số tiền đã vay khi có yêu cầu trả nợ là đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ của bên vay được quy định tại Điều 466 Bộ luật dân sự. Do đó, chị Hoàng Thị P khởi kiện yêu cầu chị S phải trả số tiền nợ gốc 43.000.000 đồng là có căn cứ cần được chấp nhận.

[2.2] Về yêu cầu trả tiền lãi: Tại giấy vay tiền thể hiện chị S hứa trả tiền lãi hàng tháng cho Chị P là 1.000.000 đồng/1 tháng (lãi suất là 29,7 %/ năm) là vượt quá 9,7% so với mức lãi suất giới hạn được quy định lại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự. Tuy nhiên, bên vay chưa thực hiện nghĩa vụ trả lãi nên không xem xét xử lý đối với khoản tiền lãi của phần lãi suất vượt quá. Trong quá trình giải quyết vụ án, Chị P tự nguyện rút yêu cầu tính tiền lãi trên nợ gốc nên được Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với yêu cầu tính tiền lãi trên nợ gốc.

[3] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện được chấp nhận nên Chị P không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm và được trả lại tiền tạm ứng án phí đã nộp. Chị S phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch theo quy định.

[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[5] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 244, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng Dân sự;

Căn cứ các Điều 117, Điều 119, Điều 357, Điều 463, Điều 466, Điều 468, Điều 470 của Bộ luật dân sự;

Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hoàng Thị P.

Buộc chị Hoàng Thị S phải trả cho chị Hoàng Thị P số tiền là: 43.000.000 đồng (Bốn mươi ba triệu đồng).

Khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.

2. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu tính tiền lãi trên nợ gốc của chị Hoàng Thị P.

3. Về án phí: Chị Hoàng Thị P không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm. Chị P được trả lại 1.075.000 đồng (Một triệu không trăm bảy mươi năm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số: AA/2017/0002195 ngày 08-3-2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái.

Chị Hoàng Thị S phải chịu 2.150.000 đồng (Hai triệu một trăm năm mươi nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các điều 6,7,7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

83
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 04/2022/DS-ST

Số hiệu:04/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Yên - Yên Bái
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 19/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;