Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 02/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH SƠN, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 02/2022/DS-ST NGÀY 17/02/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án Dân sự thụ lý số: 27/2021/TLST- DS ngày 16 tháng 7 năm 2021 về việc " Tranh chấp hợp đồng vay tài sản". Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2022/QĐXXST - DS ngày 04 tháng 01 năm 2022 và quyết định hoãn phiên tòa số 03/2022/QĐST - DS ngày 19/01/2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn Ông Trương Văn P - SN 1967 (Có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Khu 8, xã TL, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ

Bị đơn: Chị Đinh Thị H - SN 1975 (Vắng mặt không lý do) Địa chỉ: Khu GT, xã TL, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 14/6/2021 và bản tự khai ngày 20/12/2021, biên bản hòa giải ngày 22/12/2021 nguyên đơn ông Trương Văn P trình bày:

Ngày 12/01/2018 (Tức ngày 26/11/2017) ông Trương Văn P cho chị Đinh Thị H. Địa chỉ: Xóm GT, xã TL, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ vay số tiền 114.000.000đ (Một trăm mười bốn triệu đồng), có giấy biên nhận nợ. Giấy biên nhận nợ do chị Đinh Thị H viết và hai bên cùng ký nhận, lãi suất do hai bên thỏa thuận. Thời hạn vay là 02 năm tính từ ngày vay, chị H có trách nhiệm trả cho ông P số tiền trên, nhưng đến hết thời hạn 02 năm chị H không trả như đã cam kết, ông P đã nhiều lần gặp chị H để đòi số tiền nợ trên nhưng chị H không trả, từ năm 2019 đến nay chị H đã hứa trả nhiều lần nhưng không trả. Ngày 25/6/2021 chị H có hứa trả cho ông 5.000.000đ nhưng không thực hiện. Nay ông Trương Văn P đề nghị Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn giải quyết buộc chị Đinh Thị H trả cho ông số tiền gốc là 114.000.000đ và lãi suất là 0,83% 1 tháng, thời hạn tính lãi suất từ ngày 01/6/2019 đến khi giải quyết xong vụ án, ông Trương Văn P đề nghị chị H trả cho ông làm 02 lần:

Lần 1: Trả số tiền là 60.000.000đ (Sáu mươi triệu đồng) trả vào ngày 30/01/2022.

Lần 2: Trả số tiền là 54.000.000đ (Năm mươi tư triệu đồng) tiền gốc và tiền lãi suất phát sinh trả vào ngày 30/4/2022.

Bị đơn: Tại bản tự khai, biên bản hòa giải ngày 22/12/2021 chị Đinh Thị Huệ trình bày:

Ngày 12/01/2018 (Tức ngày 26/11/2017) chị Đinh Thị H có vay của ông Trương Văn P. Địa chỉ khu 8, xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ số tiền là 114.000.000đ (Một trăm mười bốn triệu đồng) khi vay chị H tự viết giấy biên nhận nợ, lãi suất do hai bên thỏa thuận. Thời hạn vay là 02 năm tính từ ngày vay, khi vay chị H đã trả lãi được 4.000.000đ, khi trả lãi hai bên không làm giấy biên nhận, đến cuối năm 2020 làm ăn khó khăn, do ảnh hưởng dịch bệnh Covid, nên chị H không có khả năng trả nợ, nay chị H đồng ý trả cho ông P số tiền gốc 114.000.000đ, chị xin được trả dần mỗi tháng trả 2.000.000đ, thời hạn trả từ tháng 01/2022 đến khi trả hết số tiền trên. Về tiền lãi chị H đề nghị ông P không tính lãi và chị không đồng ý trả tiền lãi theo yêu cầu của ông P.

Biên bản xác minh ngày 21/12/2021 ông Chu Văn Giang – Phó trưởng Công an xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn cung cấp cho Tòa án biết như sau: Chị Đinh Thị H, sinh năm 1975 có đăng ký nhân khẩu thường trú tại xóm Giáp Trung, xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn, hộ chị Đinh Thị H chỉ có 01 khẩu, chị H không sống cùng ai khác. Hiện nay chị Đinh Thị H không có mặt ở địa phương, chị H đi đâu, làm gì thì Công an xã không biết, khi đi chị H không khai báo gì với địa phương Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm về giải quyết vụ án:

Việc nhận đơn, phân công Thẩm phán giải quyết vụ án được thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán. Thẩm phán đã tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ, tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Các đương sự trong vụ án: Nguyên đơn đã thực hiện đúng, đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình được quy định tại Điều 70, Điều 71 - BLTTDS.

Bị đơn không thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình được quy định tại Điều 70, Điều 72 – BLTTDS.

Căn cứ: Điều 463, Điều 466, Khoản 1, Điều 468, Điều 470, Khoản 1 Điều 357 - Bộ luật Dân sự năm 2015. Khoản 2 Điều 227, Khoản 1, Khoản 3 Điều 228, Điều 271, Khoản 1 Điều 273 - Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015.

1. Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Trương Văn P đối với chị Đinh Thị H.

Xử buộc chị Đinh Thị H phải trả cho ông Trương Văn P số tiền nợ gốc là 114.000.000đ (Một trăm mười bốn triệu đồng) và tiền lãi suất tính từ ngày 01/6/2019 đến ngày 17/02/2022 là 32 tháng 17 ngày cụ thể như sau:

Tiền gốc là 114.000.000đ x 0,83% = 946.200đ/ 1 tháng x 32 tháng 17 ngày = 30.814.580đ tiền lãi suất.

Tổng số tiền gốc và tiền lãi suất buộc chị Đinh Thị H phải trả cho ông Trương Văn P số tiền là 144.814.580đ (Một trăm mười bốn triệu tám trăm mười bốn ngàn năm trăm tám mươi đồng).

Trong đó tiền nợ gốc là 114.000.000đ ( Một trăm mười bốn triệu), tiền lãi suất là 30.814. 580đ (Ba mươi triệu tám trăm mười bốn ngàn năm trăm tám mươi đồng) .

Về án phí dân sự sơ thẩm:

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Quy định về mức Thu, Miễn, Giảm, Thu, Nộp, Quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Chị Đinh Thị H phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án do các đương sự cung cấp và được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét cử nhận định

[1] Về quan hệ pháp luật:

Thông báo thụ lý vụ án số 27/TB -TLVA ngày 16/7/2021 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn về quan hệ tranh chấp giữa các đương sự là “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”. Trong quá trình vay tài sản hai bên có lập giấy biên nhận vay tiền bằng văn bản là do hai bên thỏa thuận, tự nguyện không bị ép buộc. Theo quy định tại Mục 4 Điều 463 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định, đây là hợp đồng vay tài sản. Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tiến hành triệu tập các bên đương sự đến để giải quyết, lập biên bản về việc mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải đối với nguyên đơn, bị đơn. Do đó, căn cứ vào Khoản 3 Điều 26, điểm c Khoản 2 Điều 203 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015. Như vậy cần xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án là “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, vụ án dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Ngày 04/01/2022 Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn ban hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử Tòa án đã gửi cho chị H nhưng chị H không có mặt tại địa phương, sau đó Tòa án đã Thông báo mở lại phiên tòa xét xử vào ngày 17/02/2022 và tiến hành và niêm yết tại địa phương và nơi chị H cư trú theo quy định của pháp luật. Trước khi chuẩn bị xét xử ông P có đơn xin xét xử vắng mặt vì lý do bận công việc đột xuất không tham gia xét xử được. Tại phiên tòa hôm nay chị H vắng mặt không lý do. Căn cứ điểm b Khoản 2 Điều 227, Khoản 1, Khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn theo quy định của pháp luật.

[2] VÒ nội dung vụ án :

Ngày 12/01/2018 (Tức ngày 26/11/2017) ông Trương Văn P cho chị Đinh Thị H. Địa chỉ: Xóm Giáp Trung, xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ vay số tiền 114.000.000đ (Một trăm mười bốn triệu đồng), hai bên có xác lập giấy biên nhận nợ, giấy biên nhận nợ do chị Đinh Thị H viết và hai bên cùng ký nhận, lãi suất do hai bên thỏa thuận. Thời hạn vay là 02 năm tính từ ngày vay, chị H có trách nhiệm trả cho ông P số tiền trên, nhưng đến hết thời hạn 02 năm chị H không trả như đã cam kết. ông P đã nhiều lần gặp chị H để đòi số tiền nợ trên nhưng chị H không trả, từ năm 2019 đến nay chị H đã hứa trả nhiều lần nhưng không trả. Ngày 25/6/2021 chị H có hứa trả cho ông P 5.000.000đ nhưng không thực hiện. Nay ông Trương Văn P đề nghị Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn giải quyết buộc chị H trả cho ông số tiền gốc là 114.000.000đ và lãi suất là 0,83% 1 tháng, Thời hạn tính lãi suất từ ngày 01/6/2019 đến khi giải quyết xong vụ án, ông Trương Văn P đề nghị chị H trả cho ông làm 02 lần:

Lần 1: Trả số tiền là 60.000.000đ (Sáu mươi triệu đồng) trả vào ngày 30/01/2022; Lần 2: Trả số tiền là 54.000.000đ (Năm mươi tư triệu đồng) tiền nợ gốc và trả tiền lãi suất phát sinh trả vào ngày 30/4/2022.

Về phía chị Đinh Thị H xác nhận lời khai của ông Trương Văn P là đúng ngày 12/01/2018 (Tức ngày 26/11/2017) chị có vay tiền ông P. Địa chỉ khu 8 xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn số tiền 114.000.000đ (Một trăm mười bốn triệu đồng), khi vay tiền chị H tự tay viết giấy biên nhận và hai bên cùng ký nhận, lãi suất do hai bên thỏa thuận. Thời hạn vay là 02 năm, khi vay chị H đã trả lãi được 4.000.000đ, khi trả lãi hai bên không làm giấy biên nhận, đến năm 2020 làm ăn khó khăn, do ảnh hưởng dịch bệnh Covid, nên chị H chưa trả cho ông P số tiền nợ gốc trên. Tính đến tháng 2/2022 chị H còn nợ ông P số tiền gốc 114.000.000đ, chị xin được trả dần mỗi tháng trả 2.000.000đ, thời hạn trả từ tháng 01/2022 đến khi trả xong số nợ gốc trên, chị không đồng ý trả tiền lãi suất cho ông P.

Như vậy tính từ ngày 12/01/2018 (Tức ngày 26/11/2017) ông Trương Văn P cho chị Đinh Thị H vay số tiền 114.000.000đ (Một trăm mười bốn triệu đồng) là đúng sự thật, hai bên có lập giấy biên nhận nợ do chị Đinh Thị H viết và hai bên cùng ký nhận, lãi suất hai bên thỏa thuận. Thời hạn vay là 02 năm, khi đến thời hạn trả nợ chị H không trả, ông P đã đòi nhiều lần nhưng chị H không trả. Nay ông Trương Văn P đề nghị Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn giải quyết buộc chị H trả cho ông số tiền gốc là 114.000.000đ và mức tính lãi suất là 0,83% 1 tháng. Thời hạn tính từ ngày 01/6/2019 đến khi giải quyết xong vụ án. Chị Huệ xác nhận có vay, nợ ông Phú số tiền gốc là 114.000.000đ chưa trả là đúng, nay chị đồng ý trả cho ông P số tiền gốc là 114.000.000đ (Một trăm mười bốn triệu đồng) chị không đồng ý trả tiền lãi suất với lý do làm ăn gặp khó khăn, ảnh hưởng dịch bệnh Covid, do đó chị không có tiền trả lãi cho ông P. Hội đồng xét xử thấy rằng lý do chị H đưa ra là không có căn cứ, mà nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho ông P, nên không được chấp nhận.

Trong quá trình giải quyết vụ án chị Đinh Thị H trình bày từ khi vay tiền của ông P (Năm 2018) đến cuối năm 2020 chị H đã trả tiền lãi cho ông P được 4.000.000đ, khi chị trả tiền lãi hai bên không làm giấy biên nhận. Tòa án đã yêu cầu chị H cung cấp tài liệu, chứng cứ về việc chị trả tiền lãi cho ông P, nhưng chị H không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì để chứng minh chị đã trả tiền lãi cho ông P. Về phía ông P không thừa nhận việc chị H trả tiền lãi cho ông, như vậy lời trình bày của chị H về việc đã trả tiền lãi cho ông P là không có căn cứ, nên không được chấp nhận. Vì vậy cần xử buộc chị Đinh Thị H phải có trách nhiệm trả cho ông Trương Văn P số tiền gốc là 114.000.000đ (Một trăm mười bốn triệu đồng) và trả tiền lãi suất phát sinh là phù hợp theo quy định tại Điều 466 – BLDS năm 2015.

Trước khi chuẩn bị xét xử ông Trương Văn P có đơn xin xét xử vắng mặt. Tại phiên tòa hôm nay ông P vắng mặt, nhưng vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết buộc chị Đinh Thị H phải trả cho ông 114.000.000đ tiền gốc và tiền lãi suất là 0,83% 1 tháng. Thời điểm tính lãi suất từ ngày 01/6/2019 đến ngày xét xử là ngày 17/02/2022 là phù hợp với quy định của pháp luật.

[3]. Xét yêu cầu của nguyên đơn:

Xét thấy yêu cầu khởi kiện của ông Trương Văn P đề nghị Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ giải quyết buộc chị Đinh Thị H có trách nhiệm trả cho ông P số tiền gốc là 114.000.000đ (Một trăm mười bốn triệu đồng). Tiền lãi suất là 0,83% 1 tháng. Thời điểm tính lãi suất từ ngày 01/6/2019 đến ngày xét xử là ngày 17/02/2022, thời gian là 32 tháng 17 ngày là có căn cứ được chấp nhận. Tiền gốc là 114.000.000đ x 0,83% = 946.200đ/ 1 tháng x 32 tháng 17 ngày = 30.814.580đ tiền lãi suất.

Tổng số tiền gốc và tiền lãi suất buộc chị Đinh Thị H phải trả cho ông Trương Văn P số tiền là 144.814.580đ (Một trăm mười bốn triệu tám trăm mười bốn ngàn năm trăm tám mươi đồng). Trong đó tiền nợ gốc là 114.000.000đ (Một trăm mười bốn triệu), tiền lãi là 30.814.580đ (Ba mươi triệu tám trăm mười bốn ngàn năm trăm tám mươi đồng).

[4]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Đinh Thị H phải chịu toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Yêu cầu khởi kiện của ông Trương Văn P được Tòa án chấp nhận nên ông P không phải chịu án phí theo pháp luật.

[5]. Quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điều 463, Điều 466, Khoản 1 Điều 468, Điều 470, Khoản 1 Điều 357 - Bộ luật Dân sự năm 2015. Khoản 2 Điều 227, Khoản 1, Khoản 3 Điều 228, Điều 271, Khoản 1 Điều 273 - Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015.

1. Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Trương Văn P đối với chị Đinh Thị H.

Xử buộc chị Đinh Thị H phải trả cho ông Trương Văn P số tiền nợ gốc là 114.000.000đ (Một trăm mười bốn triệu đồng) tiền lãi suất tính từ ngày 01/6/2019 đến ngày xét xử là ngày 17/02/2022, thời gian là 32 tháng 17 ngày cụ thể như sau:

Tiền gốc là 114.000.000đ x 0,83% = 946.200đ/ 1 tháng x 32 tháng 17 ngày = 30.814.580đ tiền lãi suất.

Tổng số tiền gốc và tiền lãi suất buộc chị Đinh Thị H phải trả cho ông Trương Văn P số tiền là 144.814.580đ (Một trăm mười bốn triệu tám trăm mười bốn ngàn năm trăm tám mươi đồng).Trong đó tiền nợ gốc là 114.000.000đ (Một trăm mười bốn triệu), tiền lãi suất là 30.814.580đ (Ba mươi triệu tám trăm mười bốn ngàn năm trăm tám mươi đồng).

Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật, ông Trương Văn P có đơn yêu cầu thi hành án mà chị Đinh Thị H không thanh toán số tiền trên, thì chị H phải trả lãi suất đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại Điều 357 Bộ luật dân sự 2015.

2.Về án phí dân sự sơ thẩm:

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Quy định về mức Thu, Miễn, Giảm, Thu. Nộp, Quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Chị Đinh Thị H phải chịu 7.240.729đ. (Bảy triệu hai trăm bốn mươi ngàn bảy trăm hai chín đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả lại cho ông Trương Văn P số tiền 2.850.000đ (Hai triệu tám trăm năm mươi ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số: AA/2020/0003592 ngày 16/7/2021. Tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại trụ sở UBND nơi họ cư trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

“ Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và 9 luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại các Điều 30 luật thi hành án”

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 02/2022/DS-ST

Số hiệu:02/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Sơn - Phú Thọ
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 17/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;