Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản 80/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHƯỚC LONG-TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 80/2021/DS-ST NGÀY 14/10/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện PL xét xử   công khai vụ án thụ lý số 336/2021/TLST-DS ngày 30 tháng 11 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số  154/2021/QĐST - DS ngày 01 tháng 6 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần KL.

Địa chỉ: Số 40- 42- 44, đường Phạm Hồng Thái, phường Vĩnh Thanh Vân, Tp. Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

Người đại diện theo pháp luật: Bà Trần Tuấn A – Chức vụ: Tổng giám đốc. Người đại diện theo ủy quyền: Anh Võ Tấn Đ, sinh năm 1987.

Địa chỉ: Ấp Nội Ô, thị trấn PL, huyện PL, tỉnh Bạc Liêu.

-Đồng bị đơn: Ông Nguyễn MĐ, sinh năm 1983 và bà Ong Thị T, sinh  năm 1986  Cùng địa chỉ: Ấp Phước Hòa A, thị trấn PL, huyện PL, tỉnh Bạc Liêu.

(Anh Võ Tấn Đ có đơn xin xét xử vắng mặt; ông Nguyễn MĐ, bà Ong  Thị T vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện và lời khai có trong hồ sơ vụ án, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn anh  Võ Tấn Đ trình bày:

Ngày 26/12/2019 ông Nguyễn MĐ và bà Ong Thị T ký hợp đồng tín dụng kiêm hợp đồng cầm cố số A955954/HĐTD-CC với Ngân hàng TMCP Kiên Long, Phòng giao dịch PL Bạc Liêu để vay số tiền 15.000.000đ với mục đích mua bán, lãi suất trong hạn là 16%/năm, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất vay tại thời điểm chuyển nợ quá hạn, thời hạn vay 180 ngày. Thỏa thuận trả gốc và lãi hàng ngày từ ngày 27/12/2019 đến ngày 24/6/2020, số tiền trả mỗi ngày  89.896 đồng, ngày cuối là 92.296 đồng. Để đảm bảo cho khoản vay, bà T và  ông  Đ đã cầm cố cho Ngân hàng xe gắn máy hiệu HAYATE, biển kiểm soát  94E1-038.75, số máy F4E4-205633, số khung 4EM0B0105633. Ngân hàng TMCP KLđã giải ngân cho ông  Đ và bà T bằng hình thức nhận tiền mặt vào ngày 26/12/2020. Từ ngày giải ngân đến ngày 05/5/2020, ông  Đ và bà T đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền 11.688.128 đồng (trong đó gốc  10.833.333 đồng và lãi 854.795 đồng). Do hợp đồng đã đến hạn thanh toán nhưng ông  Đ, bà T không thanh toán nợ cho Ngân hàng nên Ngân hàng đã chuyển toàn bộ số nợ sang nợ quá hạn. Mặc dù Ngân hàng thường xuyên đôn đốc và tạo điều kiện để ông Đ, bà T trả nợ, tuy nhiên ông  Đ, bà T vẫn chưa thanh toán khoản nợ vay quá hạn cho Ngân hàng, vi phạm các điều khoản tại Hợp đồng cho vay đã ký.

Nay Ngân hàng TMCP KLyêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Nguyễn MĐ  và  bà  Ong  Thị  T  phải  trả  cho  Ngân  hàng  số  tiền  còn  nợ  tính  đến  ngày  14/10/2021 là 5.429.680 đồng (trong đó tiền gốc là 4.166.667 đồng, tiền lãi trong hạn là 328.767 đồng, tiền lãi quá hạn là 934.247 đồng). Đồng thời kể từ ngày 15/10/2021, ông  Đ, bà T phải chịu lãi suất quá hạn theo thỏa thuận của hợp đồng tín dụng đã ký kết cho đến khi thanh toán xong nợ cho Ngân hàng.

Ngày 02/3/2021, Ngân hàng TMCP KL có đơn sửa đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện với nội dung không yêu cầu phát mãi tài sản bảo đảm là xe gắn máy hiệu HAYATE, biển kiểm soát 94E1-038.75, số máy F4E4-205633, số khung  4EM0B0105633  - Bị đơn ông Nguyễn MĐ và bà Ong Thị T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt nên Tòa án không lấy được lời khai.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện PL phát biểu ý kiến:

- Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và  Hội đồng xét xử đúng theo quy định pháp luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên vẫn còn  vi phạm tại Điều 220 Bộ luật tố tụng dân sự về việc gửi quyết định đưa vụ án ra xử và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát; Đối với các đương sự đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng, riêng bị đơn chưa chấp hành quy định tại khoản  15, 16 Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng Thương mại Cổ phần KL. Buộc ông  Đ và bà T có nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần KL số tiền 5.429.680 đồng (trong đó tiền gốc là 4.166.667 đồng, tiền lãi trong hạn là 328.767 đồng, tiền lãi quá hạn là  934.247 đồng) và tiền lãi phát sinh từ ngày 15/10/2021 theo thỏa thuận trong hợp đồng cho đến ngày trả hết nợ.

Về án phí: ông Nguyễn MĐ và bà Ong Thị T phải chịu án phí có giá ngạch trên số tiền phải trả cho Ngân hàng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thẩm quyền và thủ tục tố tụng: Ngân hàng TMCP KL khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn MĐ và bà Ong Thị T trả số tiền vay còn nợ, đây là tranh chấp về hợp đồng vay tài sản, ông  Đ và bà T đang cư trú trên địa bàn huyện PL nên căn cứ vào khoản 3 Điều 26, Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án nhân dân huyện PL thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền. Ông  Đ và bà T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt, anh Đạt có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử giải quyết vắng mặt anh Đạt, ông  Đ và bà T là đúng theo quy định tại khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung khởi kiện: Theo Giấy đề nghị vay vốn trả góp ngày  26/12/2019, Ngân hàng TMCP KL- Chi nhánh Bạc Liêu - Phòng giao dịch PL đã cho ông  Đ và bà T vay theo hợp đồng tín dụng kiêm hợp đồng cầm cố số A955954/HĐTD-CC với số tiền 15.000.000đ với mục đích mua bán, lãi suất trong hạn là 16%/năm, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất vay tại thời điểm chuyển nợ quá hạn, thời hạn vay 180 ngày, gốc và lãi được trả hàng ngày kể từ ngày 27/12/2019 đến ngày 24/6/2020. Để bảo đảm cho khoản vay, ngoài tín chấp thì ông  Đ và bà T đã cầm cố cho Ngân hang xe gắn máy HAYATE, biển kiểm soát 94E1-038.75, số máy F4E4-205633, số khung 4EM0B0105633. Ngân hàng TMCP KLđã giải ngân ông  Đ và bà T bằng hình thức nhận tiền mặt vào ngày 26/12/2019. Ông  Đ và bà T đã được Tòa án thông báo về việc Ngân hàng khởi kiện nhưng ông  Đ và bà T không có ý kiến phản đối gì đối với yêu cầu của Ngân hàng. Như vậy, việc ông  Đ và bà T có vay tiền của Ngân hàng TMCP KLlà thực tế có xảy ra.

[3] Theo hợp đồng thì ông  Đ và bà T có nghĩa vụ phải trả số tiền gốc và tiền lãi hàng ngày kể từ ngày 27/12/2019 đến ngày 24/6/2020. Trong quá trình thực hiện hợp đồng từ ngày giải ngân đến ngày 05/5/2020, ông  Đ và bà T đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền 11.688.128 đồng (trong đó gốc  10.833.333 đồng và lãi 854.795 đồng) thì ngưng không trả nợ cho đến nay. Do ông  Đ và bà T không trả nợ là đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ của bên vay theo thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng kiêm hợp đồng cầm cố đã ký kết với Ngân hàng. Do đó, nay Ngân hàng TMCP KLkhởi kiện yêu cầu ông  Đ và bà T phải trả nợ gốc còn lại và lãi là phù hợp nên được chấp nhận.

[4] Ông  Đ và bà T vay số tiền gốc 15.000.000đ đã trả được số tiền của hợp đồng là 11.688.128 đồng, do đó, buộc ông  Đ và bà T có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng TMCP KLsố tiền gốc còn lại của hợp đồng là  4.166.667 đồng. Đối với lãi theo hợp đồng tín dụng thì lãi suất trong hạn là  16%/năm, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất vay tại thời điểm chuyển nợ quá hạn. Xét thấy, ông  Đ và bà T và Ngân hàng có thỏa thuận lãi suất khi ký hợp đồng tín dụng, ông  Đ và bà T không trả nợ theo thỏa thuận thì ông  Đ và bà T phải chịu tiền lãi phát sinh cho đến khi thanh toán hết nợ cho Ngân hàng theo lãi suất đã thỏa thuận. Do đó, Ngân hàng TMCP KLyêu cầu ông  Đ và bà T phải trả tiền lãi tính đến ngày 14/10/2021 với tiền lãi trong hạn là 328.767 đồng, tiền lãi quá hạn là 934.247 đồng của hợp đồng tín dụng đã ký kết là có căn cứ nên được chấp nhận.

[5] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Kiên Long, buộc ông  Đ và bà T có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng TMCP KLsố tiền còn nợ của hợp đồng tín dụng đã ký kết tính đến ngày 14/10/2021 là 5.429.680 đồng (trong đó tiền gốc là  4.166.667 đồng, tiền lãi trong hạn là 328.767 đồng, tiền lãi quá hạn là 934.247 đồng). Đồng thời kể từ ngày 15/10/2021, ông  Đ và bà T phải chịu lãi suất quá hạn theo thỏa thuận của hợp đồng tín dụng đã ký kết cho đến khi thanh toán xong nợ cho Ngân hàng.

[6] Đối với yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm: Không đặt ra xem xét giải quyết do không có yêu cầu.

[7] Từ những nhận định trên, xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có  căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] về án phí: Ông  Đ và bà T phải chịu án phí dân sự sơ tham theo quy định. Ngân hàng TMCP KL không phải chịu án phí.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 26, 35, 39, 147, 217, 227, 228, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

Căn cứ vào các Điều 463, 466 của Bộ luật dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng 2010 sửa đổi bổ sung năm  2017.

Căn cứ vào Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần KL đối với ông Nguyễn MĐ và bà Ong Thị T. Buộc ông Nguyễn MĐ và bà Ong Thị T có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần KL số tiền  5.429.680 đồng (trong đó tiền gốc là 4.166.667 đồng, tiền lãi trong hạn là  328.767 đồng, tiền lãi quá hạn là 934.247 đồng)  Kể từ ngày 15/10/2021 ông Nguyễn MĐ và bà Ong Thị T còn phải chịu khoản tiền lãi quá hạn trên số tiền nợ gốc với mức lãi suất mà các bên thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng đã ký kết cho đến khi thanh toán xong nợ cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần KL.

2. Về án phí: Ông Nguyễn MĐ và bà Ong Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng. Ngân hàng Thương mại Cổ phần KL không phải chịu án phí. Ngân hàng TMCP KLđã dự nộp số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009729 ngày 25/11/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện PL nên được nhận lại.

3. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2  Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn  15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

92
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản 80/2021/DS-ST

Số hiệu:80/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phước Long - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 14/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;