Bản án về tranh chấp hợp đồng vay có cầm cố tài sản và hợp đồng mượn tài sản số 32/2024/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NINH HẢI, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 32/2024/DS-ST NGÀY 12/09/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY CÓ CẦM CỐ TÀI SẢN VÀ HỢP ĐỒNG MƯỢN TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 9 năm 2024, tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Ninh Hải, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 247/2023/TLST- DS ngày 21 tháng 12 năm 2023, về việc “Tranh chấp hợp đồng vay có cầm cố tài sản và hợp đồng mượn tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23c/2024/QĐXXST-DS ngày 31/7/2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 27/2024/QĐST-DS ngày 22/8/2024, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Công ty Cổ phần SAWAD Tiền Có Ngay.

Địa chỉ trụ sở chính: số 128 Nguyễn Du, phường Bến Thủy, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Kanokwatpaisad Napat – Chức vụ: Giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn Sơn – Chức vụ: Nhân viên Công ty Cổ phần S Tiền Có Ngay (theo Giấy ủy quyền số 243/2023/UQ- SVN ngày 11/10/2023). (Có mặt) Địa chỉ: Thôn Liên Sơn 1, xã Phước Sơn, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận.

- Bị đơn: Ông Lê Phú H, sinh năm: 1991. (Vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Phương Cựu 3, xã Phương Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Nguyễn Văn Sơn trình bày:

Ông Lê Phú H với Công ty Cổ phần SAWAD Tiền Có Ngay – Chi nhánh Phan Rang (gọi tắt là Công ty) có lập hợp đồng cầm cố số PRM221001026NA22X và phụ lục hợp đồng cầm cố số PRM221001026NA22X ngày 31/10/2022 cầm cố tài sản cho Công ty là xe máy, nhãn hiệu HONDA, loại xe: WINER X, số khung: RLHKC440XNY019472, số máy: KC34E5046658, Biển số: 85C1-507.68, số giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 000173 do Công an tỉnh Ninh Thuận cấp ngày 16/9/2022. Số tiền cầm cố tài sản là 22.000.000 đồng, thời hạn cầm cố 24 tháng, lãi suất cầm cố là 1,1%/tháng và các khoản phí phát sinh, phí hao mòn tài sản theo các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng, mục đích cầm cố sử dụng cá nhân. Gốc, lãi, phí trả 01 lần vào ngày 31 hàng tháng là 1.171.128 đồng. Ngoài ra, khi thanh toán quá hạn ông H còn phải chịu phí phạt bằng 150% lãi trong hạn, phạt vi phạm chuyển nợ quá hạn là 8%. Hợp đồng cầm cố trên đã được đăng ký giao dịch bảo đảm trên hệ thống đăng ký trực tuyến của cục đăng ký quốc gia. Ngoài ra, ông H có lập giấy ủy quyền ngày 31/10/2022 cho Công ty với nội dung: Bên nhận ủy quyền được thay mặt bên ủy quyền quản lý, sử dụng và định đoạt (cho thuê, cho mượn, khai thác công dụng của tài sản và hưởng hoa lợi, lợi tức từ việc khai thác tài sản). Do ông H không có phương tiện đi lại để phục vụ công việc cá nhân nên trong ngày 31/10/2022 ông H đã lập “Giấy mượn xe”, mượn lại chiếc xe mang biển số 85C1-507.68 đã cầm cố trên trong thời hạn 30 ngày (từ ngày 31/10/2022 đến ngày 31/11/2022) và Công ty đã đồng ý bàn giao tài sản cầm cố trên cho ông Hòa. Ông Hòa đồng ý trả các loại phí gồm: Phí mượn xe là 660.000 đồng/tháng, nếu quá thời hạn trên mà ông H không trả xe về cho Công ty thì vẫn phải chịu phí mượn xe theo thỏa thuận trên; phí thu hồi, xử lý tài sản cầm cố là 1.000.000 đồng và các thỏa thuận khác liên quan đến việc mượn xe.

Quá trình thực hiện hợp đồng nêu trên, ông H không thanh toán cho Công ty theo như thỏa thuận trong hợp đồng đã ký. Nhiều lần Công ty gọi điện, cử nhân viên đến gặp trực tiếp ông H yêu cầu thực hiện hợp đồng cầm cố đã ký hoặc bàn giao lại tài sản cầm cố đã mượn của Công ty nhưng ông H không hợp tác, cố tình né tránh không thực hiện.

Tại đơn khởi kiện ngày 01/11/2023 Công ty S yêu cầu ông H phải trả lại xe máy mang biển số 85C1-507.68 đã mượn theo “Giấy mượn xe” mà hai bên đã ký kết. Nếu ông H không trả lại xe máy thì phải trả số tiền gốc, lãi còn nợ theo hợp đồng cầm cố tài sản. Đến phiên hòa giải ngày 25/4/2024 nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện, không yêu cầu ông H trả lại xe nhưng phải trả số tiền gốc, lãi trong hạn, lãi quá hạn, phí mượn xe, phí quản lý hồ sơ và phí vi phạm hợp đồng. Tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Nguyễn Văn Sơn xin rút lại yêu cầu đối với phí quản lý hồ sơ, phí vi phạm hợp đồng và không yêu cầu ông H trả lại xe máy mang biển số 85C1-507.68. Chỉ yêu cầu ông H phải trả cho Công ty số tiền tính đến ngày 12/9/2024 tổng cộng là 48.265.790 đồng (Trong đó, tiền gốc: 22.000.000 đồng, lãi trong hạn: 3.196.590 đồng, lãi quá hạn 7.889.200 đồng, phí mượn xe 15.180.000 đồng) và yêu cầu ông H phải tiếp tục trả lãi phát sinh theo pháp luật cho đến khi thanh toán xong khoản nợ. Hiên Công ty đang giữ giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 000173 do Công an tỉnh Ninh Thuận cấp ngày 16/9/2022 khi nào ông H thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ, Công ty sẽ giao trả lại cho ông H.

Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa bị đơn ông Lê Phú H vắng mặt dù đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát: Từ khi thụ lý vụ án đến nay, Thẩm phán, Thư ký, nguyên đơn đều tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay Hội đồng xét xử đúng thành phần, xét xử đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Riêng bị đơn vắng mặt dù đã được tống đạt hợp lệ. Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn trả lại chiếc xe máy đã cầm cố, phí quản lý hồ sơ và phạt vi phạm hợp đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời trình bày và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Căn cứ vào đơn khởi kiện, lời trình bày của đương sự và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Ông Lê Phú H cầm cố xe máy cho công ty S để nhận tiền, sau đó lập giấy mượn xe đã cầm cố để dùng làm phương tiện đi lại. Như vậy, bản chất của giao dịch dân sự lập “Hợp đồng cầm cố” và “Giấy mượn xe” giữa Công ty sawad và ông H là để che đậy mục đích thực sự là “Vay tiền”. Vì vậy, Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ kiện này là: “Tranh chấp hợp đồng vay có cầm cố tài sản” và “Hợp đồng mượn tài sản” được quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự; Bị đơn cư trú tại xã Phương Hải, huyện Ninh Hải nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân hyện Ninh Hải theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.2] Tại phiên tòa hôm nay bị đơn tiếp tục vắng mặt dù đã được tống đạt hợp lệ. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[1.3] Tại phiên tòa, nguyên đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu ông Lê Phú H giao trả lại chiếc xe máy biển số: 85C1-507.68 đã mượn, phí quản lý hồ sơ và phạt vi phạm hợp đồng. Việc rút một phần yêu cầu khởi kiện này của nguyên đơn là hoàn toàn tự nguyện nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu trên của nguyên đơn.

[2] Về nội dung vụ án:

Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử thấy rằng:

[2.1] Căn cứ vào hợp đồng cầm cố số PRM221001026NA22X và phụ lục hợp đồng cầm cố số PRM221001026NA22X ngày 31/10/2022; phiếu đăng ký cầm cố xe máy; phiếu yêu cầu đăng ký biện pháp bảo đảm hợp đồng, giấy uỷ quyền ngày 31/10/2022, giấy mượn xe ngày 31/10/2022 thấy rằng các giấy tờ trên đều có chữ ký của ông Lê Phú H. Căn cứ vào các chứng cứ trên, đủ cơ sở để xác định: Ngày 31/10/2022 ông Lê Phú H có cầm cố cho Công ty S chiếc xe máy biển số 85C1-507.68 vay số tiền 22.000.000 đồng, thời hạn vay 24 tháng, lãi trả hàng tháng, lãi suất cho vay cố định là 1,1%/tháng trên dư nợ thực tế tính từ ngày ký hợp đồng và nhận tiền. Ông H có nghĩa vụ trả tiền vào ngày 30 của tháng, từ tháng 10/2022 đến tháng 10/2024), lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn. Hợp đồng cầm cố giữa Công ty S và ông H được ký kết trên cơ sở tự nguyện, mục đích, nội dung và hình thức đúng quy định của pháp luật nên xác định là hợp đồng hợp pháp. Sau khi ký hợp đồng và nhận tiền đến nay, ông H không thanh toán cho Công ty bất kỳ khoản tiền nào.

Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc ông H phải trả cho Công ty S tính từ ngày giải ngân đến ngày 12/9/2024 tổng cộng số tiền 48.265.790 đồng. (Trong đó, nợ gốc: 22.000.000 đồng, lãi trong hạn: 3.196.590 đồng, Lãi quá hạn: 7.889.200 đồng) và lãi suất phát sinh theo quy định của pháp luật kể từ ngày 13/9/2024 cho đến khi trả dứt nợ là có căn cứ, phù hợp pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.2] Để đảm bảo cho khoản vay, ông H đã cầm cố chiếc xe máy biển số 85C1-507.68 thuộc sở hữu của ông H cho Công ty S. Chi phí cho việc đăng ký và xoá giao dịch bảo đảm là 150.000 đồng và chi phí tổ chức kiểm tra giá trị tài sản ban đầu là 330.000 đồng tại thời điểm giao kết hợp đồng làm căn cứ chấp thuận khoản cầm cố của ông H. Xét thấy, các chi phí này là sự thoả thuận giữa Công ty và ông H phù hợp với quy định của pháp luật, ông H đả trả các chi phí này mà không có ý kiến gì và Công ty không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.3] Đối với hợp đồng mượn tài sản, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Ngày 31/10/2022 ông Lê Phú H lập “Giấy uỷ quyền” để uỷ quyền cho Công ty S, cùng ngày ông H lập “Giấy mượn xe” xin mượn lại chiếc xe biển số 85C1-507.68 đã cầm cố trong thời hạn 30 ngày (từ ngày 31/10/2022 đến đến 31/11/2022) và Công ty S đã đồng ý bàn giao tài sản cầm cố trên cho ông H. Tại giấy mượn xe, ông H đồng ý trả phí mượn xe là 660.000 đồng/tháng, nếu quá thời hạn trên mà ông H không trả lại xe cho Công ty thì vẫn phải chịu phí mượn xe đã thoả thuận. Việc các bên thoả thuận cho mượn lại tài sản cầm cố và thoả thuận phí mượn xe là sự tự nguyện của các bên tham gia giao dịch, không vi phạm điều cấm của luật, không trái với đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Từ khi thụ lý đến nay ông Lê Phú H đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng không có văn bản trả lời, không cung cấp tài liệu chứng cứ gì cho Tòa án xem như tự từ bỏ quyền lợi của mình.

Từ các phân tích như trên, Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận các yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần S Tiền Có Ngay.

[2.4] Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, phù hợp với những nhận định trên nên chấp nhận.

[3] Về án phí: Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 244, Điều 271, Điều 273 của Bộ Luật tố tụng dân sự.

Các Điều 309, 310, 311, 316, 357, 463, 466, 468, 470, 494 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của C ô n g t y Cổ phần S Tiền Có Ngay.

Buộc ông Lê Phú H phải có nghĩa vụ trả cho C ô n g t y Cổ phần S Tiền Có Ngay tính đến ngày 12/9/2024 tổng cộng số tiền 48.265.790 đồng (Bốn mươi tám triệu hai trăm sáu mươi lăm ngàn bảy trăm chín mươi đồng). (Trong đó, nợ gốc: 22.000.000 đồng, lãi trong hạn: 3.196.590 đồng, Lãi quá hạn:

7.889.200 đồng và phí mượn xe là 15.180.000 đồng).

Kể từ ngày tiếp theo ngày xét xử sơ thẩm, ông Lê Phú H phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi của số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất các bên thỏa thuận tại hợp đồng cho đến khi thanh toán xong các khoản nợ phù hợp quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự.

Ngay sau khi ông Lê Phú H thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ. Công ty Cổ phần S Tiền Có Ngay có nghĩa vụ giao trả Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 000173 do Công an tỉnh Ninh Thuận cấp ngày 16/9/2022 cho ông Lê Phú H.

2. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của C ô n g t y Cổ phần S Tiền Có Ngay về việc yêu cầu ông Lê Phú H phải giao trả lại chiếc xe máy, biển số: 85C1-507.68 cho Công ty, phí quản lý hồ sơ và phạt vi phạm hợp đồng.

3. Về án phí: Ông Lê Phú H phải nộp 2.413.000 đồng (Hai triệu bốn trăm mười ba ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

C ô n g t y Cổ phần S Tiền Có Ngay không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn lại cho C ô n g t y Cổ phần S Tiền Có Ngay số tiền 913.000 đồng (Chín trăm mười ba ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0001660 ngày 14/12/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận.

4. Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 06, 07 và 09 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay có cầm cố tài sản và hợp đồng mượn tài sản số 32/2024/DS-ST

Số hiệu:32/2024/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ninh Hải - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 12/09/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;