TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG - THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN
BẢN ÁN 91/2024/DS-ST NGÀY 25/09/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY CÓ CẦM CỐ TÀI SẢN
Ngày 25 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 287/2024/TLST-DS ngày 24 tháng 6 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay có cầm cố tài sản; hợp đồng mượn tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 107/2024/QĐXXST-DS ngày 19 tháng 8 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa số: 40/2024/QĐST-DS ngày 05 tháng 9 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Công ty Cổ phần S.
Người đại diện theo pháp luật: Ông K – Chức vụ: Giám đốc Công ty.
Địa chỉ trụ sở chính: Số 128 N, phường B, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Hoàn T – Chức vụ: Nhân viên Công ty Cổ phần S (theo Giấy ủy quyền số 236/2023/UQ-SVN ngày 25/10/2023) (có mặt)
2. Bị đơn: Ông Trịnh Xuân V, sinh năm: 1968 (vắng mặt) Địa chỉ: Khu phố 2, phường B, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Vào ngày 16/12/2022, ông Trịnh Xuân V có đến Công ty TNHH SRIS chi nhánh Phan Rang 2 (nay là Công ty Cổ phần S, sau đây gọi tắt là Công ty S) để ký hợp đồng số P2M221201025NA17X cầm cố tài sản là 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE mang biển số 85B1-570.07, số khung: RLHJA3817GY063740, số máy: JA38E0148559, giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 035876, do Công an tỉnh Ninh Thuận cấp ngày 18/10/2017, để vay số tiền 8.800.000 đồng, lãi suất 1.1%/tháng trên dư nợ thực tế, lãi suất quá hạn 150% mức lãi suất cầm cố, thời hạn cầm cố là 12 tháng (từ ngày 16/12/2022 đến ngày 16/12/2023), phương thức thanh toán theo định kỳ hàng tháng, mỗi tháng thanh toán vào ngày 16 với số tiền 811.818,10 đồng.
Thực hiện hợp đồng, Công ty S đã giải ngân cho ông Trịnh Xuân V số tiền 8.800.000 (tám triệu tám trăm nghìn) đồng; đồng thời, Công ty đã nhận bảo đảm số tiền cầm cố trên bằng 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE mang biển số 85B1-570.07, đăng ký tên chủ xe Trịnh Xuân V.
Cùng ngày, ông V đã ký Giấy ủy quyền cho Công ty S được thay mặt ông “quản lý, sử dụng, định đoạt (cho thuê, bán) chiếc xe mang biển số 85B1- 570.07”. Đồng thời, do không có phương tiện đi lại nên ông Trịnh Xuân V đã ký Giấy mượn xe với Công ty S để mượn lại chiếc xe 85B1-570.07 đã được cầm cố, thời hạn mượn là 30 ngày (từ ngày 16/12/2022 đến ngày 16/01/2023), địa điểm trả xe là Chi nhánh Phan Rang 2 của Công ty, phí bảo dưỡng và hao mòn xe là: 264.000 đồng/tháng (nếu ông V thanh toán đúng hạn phí bảo dưỡng và hao mòn xe là: 176.000 đồng/ tháng), phí thu hồi, xử lý tài sản cầm cố: 1.000.000 đồng. Công ty S đồng ý và đã giao tài sản cầm cố là chiếc xe cho ông V quản lý, sử dụng trong thời hạn nêu trên.
Quá trình thực hiện hợp đồng, vào các ngày 15/02/2023, 25/4/2023 khách hàng thanh toán cho Công ty được số tiền 3.389.000 đồng (Trong đó: tiền gốc 2.045.434 đồng; tiền lãi 268.138 đồng; phí quản lý hồ sơ 123.881 đồng; phí phạt: 158.962 đồng; phí bảo dưỡng và hao mòn 792.000 đồng). Từ ngày 16/4/2023 cho đến nay, ông V đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng cầm cố. Công ty S đã nhiều lần liên hệ qua điện thoại và cử nhân viên đến gặp trực tiếp ông Trịnh Xuân V để yêu cầu ông V thực hiện các nghĩa vụ theo hợp đồng cầm cố đã ký hoặc bàn giao tài sản cầm cố đã mượn lại của Công ty nhưng ông V đều lẫn tránh, không hợp tác.
Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn yêu cầu tòa án giải quyết:
- Yêu cầu ông Trịnh Xuân V phải giao trả lại chiếc xe hiệu Honda Wave mang biển số 85B1-570.07, số khung: RLHJA3817GY063740, số máy: JA38E0148559 đã cầm cố mà ông V mượn lại của Công ty CP S.
- Trường hợp ông Trịnh Xuân V không thể trả lại xe cầm cố thì phải có nghĩa vụ thanh toán cả gốc lẫn lãi và các loại phí tới thời điểm hiện tại thông qua hợp đồng cầm cố tài sản.
Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện hợp pháp của nguyên đơn xin rút lại một phần yêu cầu khởi kiện đối với các yêu cầu buộc ông V phải giao trả lại chiếc xe hiệu Honda Wave mang biển số 85B1-570.07, phí phạt trễ hạn, phí mượn xe và phí quản lý hồ sơ.
Giữ nguyên yêu cầu buộc ông Trịnh Xuân V có nghĩa vụ thanh toán cả gốc lẫn lãi, tại thời điểm hiện tại thông qua hợp đồng cầm cố tài sản với khoản tiền tạm tính đến ngày 25/9/2024 là: 8.630.209 đồng (Tám triệu sáu trăm ba mươi nghìn hai trăm lẻ chín đồng) gồm: Nợ gốc: 6.754.566 đồng; Nợ lãi trong hạn:
379.361 đồng; Lãi quá hạn: 1.496.282 đồng.
Buộc ông Trịnh Xuân V phải tiếp tục chịu lãi phát sinh theo thỏa thuận đã ký kết kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thanh toán xong nợ.
Sau khi ông V thanh toán hết nợ, Công ty đồng ý trả lại bản chính giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 035876, do Công an tỉnh Ninh Thuận cấp ngày 18/10/2017 cho ông V.
Bị đơn ông Trịnh Xuân V: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận đã thông báo, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng. Tuy nhiên, ông V không đến Tòa án làm việc và không có ý kiến phản hồi gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cũng như các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp, vắng mặt tại phiên tòa hai lần không có lý do.
Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, cụ thể như sau:
- Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án.
- Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng. Bị đơn đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng tại phiên tòa hôm nay vẫn vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự là thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.
- Về nội dung vụ án:
+ Căn cứ Điều 5, khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
+ Các điều: 309, 310, 311, 313, 316, 463, 466, 468, 497 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
+ Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
Đề nghị Hội đồng xét xử Đình chỉ đối với các yêu cầu khởi kiện đã rút và chấp nhận các yêu cầu khởi kiện còn lại của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về xác định quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn Công ty Cổ phần S yêu cầu bị đơn ông Trịnh Xuân V thanh toán số tiền còn nợ, tiền lãi theo hợp đồng cầm cố tài sản và trả lại tài sản; Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp hợp đồng vay có cầm cố tài sản; hợp đồng mượn tài sản” theo khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn có địa chỉ tại Khu phố 2, phường B, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự; vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.
[1.2] Xử lý về việc vắng mặt của bị đơn: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện thủ tục tống đạt hợp lệ cho ông V. Ông V không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho các đương sự theo quy định của pháp luật nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để giải quyết vụ án. Ông V vắng mặt tại phiên tòa lần thứ nhất không có lý do nên Tòa án hoãn phiên tòa theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa lần thứ hai, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt.
[1.3] Về việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu khởi kiện:
Tại phiên hòa giải và tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện hợp pháp của nguyên đơn xin rút lại một phần yêu cầu khởi kiện đối với các yêu cầu buộc ông V phải giao trả lại chiếc xe hiệu Honda Wave mang biển số 85B1- 570.07; buộc trả phí hao mòn tài sản và phí quản lý hồ sơ. Xét thấy, việc nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định tại Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn không có yêu cầu phản tố nên Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn như đã nêu trên.
[2] Về nội dung vụ án:
Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy:
[2.1] Về hiệu lực của hợp đồng: Ngày 16/12/2022, ông Trịnh Xuân V có ký với Công ty TNHH SRIS Việt Nam chi nhánh Phan Rang 2 (nay là Công ty Cổ phần S) phiếu đăng ký cầm cố xe máy; hợp đồng cầm cố số P2M221201025NA17X (kèm theo phụ lục hợp đồng cầm cố); thông qua Hợp đồng, Công ty cổ phần S đã giải ngân cho ông V số tiền: 8.800.000 đồng và Công ty nhận bảo đảm khoản tiền vay đã giải ngân thông qua việc cầm cố xe hiệu Honda Wave mang biển số 85B1-570.07, số khung: RLHJA3817GY063740, số máy: JA38E0148559 do ông V đứng tên chủ sở hữu. Đồng thời, ông V có ký giấy mượn lại chiếc xe nêu trên và được phía Công ty chấp nhận.
Xét thấy, Hợp đồng cầm cố và mượn xe được các bên xác lập trên cơ sở tự nguyện, không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, không bị lừa dối hay bị ép buộc nên đây là hợp đồng hợp pháp phù hợp với quy định của pháp luật.
[2.2] Về nội dung hợp đồng cầm cố:
Công ty Cổ phần S có đăng ký kinh doanh dịch vụ cầm đồ; tại khoản 4 Điều 3 Nghị định 96/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định “Kinh doanh dịch vụ cầm đồ, gồm: Kinh doanh dịch vụ cho vay tiền mà người vay tiền phải có tài sản hợp pháp mang đến cơ sở kinh doanh dịch vụ cầm đồ để cầm cố”.
Điều 309 của Bộ luật Dân sự quy định “Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây là gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ”.
Công ty S và ông V giao kết hợp đồng cầm cố tài sản số P2M221201025NA17X, tại Điều 2 của hợp đồng quy định: “SVN đồng ý nhận tài sản cầm cố của Khách hàng và cho khách hàng cầm cố số tiền là 8.800.000 đồng”.
Như vậy, có đủ căn cứ để xác định: Mặc dù hình thức của hợp đồng số P2M221201025NA17X là hợp đồng cầm cố tài sản nhưng nội dung của hợp đồng là thỏa thuận về việc Công ty S cho ông V vay số tiền 8.800.000 đồng và việc ông V cầm cố chiếc xe Honda Wave mang biển số 85B1-570.07 cho Công ty S thông qua hợp đồng này là phương thức bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả số tiền nợ đã vay; Nội dung hợp đồng có thỏa thuận về mức lãi suất 1,1%/ tháng, lãi quá hạn tương ứng 150% lãi suất quy định và các loại phí khác, các khoản thu này được tính theo mức %/tháng/dư nợ thực tế; cho thấy, công ty S đã dùng nhiều thuật ngữ khác nhau để tính lãi, phí và phạt hợp đồng nhằm mục thu lãi từ việc cho vay và việc ông V cầm cố xe máy để nhận tiền và viết giấy mượn lại xe để dùng làm phương tiện đi lại thực chất là để che đậy mục đích giao dịch thật sự giữa hai bên là vay tiền có tính lãi. Vì vậy, có cơ sở xác định hợp đồng giữa các bên là: Hợp đồng vay có cầm cố tài sản và hợp đồng mượn tài sản.
Công ty S đã giải ngân đủ số tiền cho ông Trịnh Xuân V theo Hợp đồng số P2M221201025NA17X ngày 16/12/2022. Quá trình thực hiện hợp đồng, ông V chỉ thanh toán được một phần tiền cho nguyên đơn nên đã vi phạm nghĩa vụ trả tiền theo quy định tại Điều 280 và Điều 311 Bộ luật Dân sự năm 2015. Vì vậy, Công ty khởi kiện yêu cầu ông Trịnh Xuân V có nghĩa vụ trả số tiền nợ gốc 6.754.566 đồng là phù hợp, nên chấp nhận.
Về yêu cầu tính lãi: Theo nội dung của Hợp đồng số P2M221201025NA17X ngày 16/12/2022, các bên thỏa thuận thời hạn vay là 12 tháng, kể từ ngày 16/12/2022 đến hết ngày 16/12/2023, lãi suất cố định là 1.1%/tháng trên dự nợ thực tế, tính từ ngày ký hợp đồng và nhận tiền; lãi quá hạn tương ứng 150% lãi suất trong hạn. Hàng tháng ông V có nghĩa vụ thanh toán số tiền gốc và lãi là 811.818,10 đồng. Từ ngày 15/02/2023 đến ngày 25/4/2023 ông V đã thanh toán được số tiền 3.389.000 đồng cho Công ty mà không có ý kiến hay khiếu nại gì. Kể từ ngày 16/4/2023 đến nay ông V vẫn chưa thực hiện đúng và đủ nghĩa vụ trả nợ theo như thỏa thuận trong hợp đồng; do vậy từ ngày 16/4/2023 C ô n g t y đã chuyển sang nợ quá hạn và áp dụng lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn. Số tiền dư nợ gốc và lãi còn lại mà ông V chưa thanh toán cho C ô n g t y Cổ phần S tính đến ngày 25/9/2024 là 8.630.209 đồng (Trong đó, nợ gốc: 6.754.566 đồng; nợ lãi trong hạn: 379.361 đồng; lãi quá hạn: 1.496.282 đồng). Căn cứ khoản 6 Điều 29 Nghị định 96/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ và khoản 2 Điều 5 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 01/10/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm thì yêu cầu tính lãi của Công ty Cổ phần S là phù hợp với khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 nên chấp nhận.
Về xử lý tài sản cầm cố: Tại phụ lục hợp đồng cầm cố (kèm theo Hợp đồng cầm cố số P2M221201025NA17X ngày 16/12/2022) có quy định về việc xử lý tài sản cầm cố nhưng do nguyên đơn không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Từ các phân tích như trên, Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận các yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần S về việc buộc ông Trịnh Xuân V phải trả số tiền còn nợ là 8.630.209 đồng (Trong đó, nợ gốc: 6.754.566 đồng; nợ lãi trong hạn:
379.361 đồng; lãi quá hạn: 1.496.282 đồng). Ông V còn phải tiếp tục trả số tiền lãi của số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi trả xong khoản nợ.
Ngay sau khi ông V thanh toán hết nợ, Công ty có nghĩa vụ trả lại bản chính giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 035876, do Công an tỉnh Ninh Thuận cấp ngày 18/10/2017 cho ông V.
[2.3] Đối với hợp đồng mượn xe: Do nguyên đơn rút lại yêu cầu Tòa án buộc ông V trả lại xe và buộc ông V trả phí hao mòn xe nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3] Tòa án đã triệu tập bị đơn ông Trịnh Xuân V tham gia tố tụng hợp lệ nhưng ông V vắng mặt. Do đó, ông V đã tự bỏ quyền được chứng minh của mình, phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[4] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, được hoàn trả số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các điều 147, 227, 228, 244, 266, 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Căn cứ Điều 117, Điều 280, Điều 309, Điều 311, Điều 312, Điều 314, Điều 315, Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của C ô n g t y Cổ phần S.
Buộc ông Trịnh Xuân V phải có nghĩa vụ trả cho C ô n g t y Cổ phần S tổng số tiền tính đến ngày 25/9/2024 là 8.630.209 đồng (Tám triệu sáu trăm ba mươi nghìn hai trăm lẻ chín đồng). Trong đó, số tiền nợ gốc 6.754.566 đồng; tiền lãi trong hạn: 379.361 đồng; lãi quá hạn: 1.496.282 đồng.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm; ông Trịnh Xuân V còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi phát sinh đối với số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật.
Ngay sau khi ông V thanh toán hết nợ, Công ty Cổ phần S có nghĩa vụ trả lại bản chính giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 035876 do Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Ninh Thuận cấp ngày 18/10/2017 cho ông V.
Về xử lý tài sản cầm cố: Công ty Cổ phần S không yêu cầu giải quyết.
2. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về các nội dung buộc ông Trịnh Xuân V phải giao trả lại chiếc xe hiệu Honda Wave mang biển số 85B1- 570.07; buộc trả phí mượn xe 2.376.000 đồng và phí quản lý hồ sơ: 0,5%/tháng với số tiền là: 170.436 đồng.
3. Về án phí:
3.1. Ông Trịnh Xuân V phải chịu: 432.000 đồng (Bốn trăm ba mươi hai ngàn đồng – đã làm tròn) án phí dân sự sơ thẩm.
2.2. C ô n g t y Cổ phần S không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn lại số tiền 314.000 đồng (Ba trăm mười bốn nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0002839 ngày 19/6/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.
3. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì Người được thi hành án dân sự, Người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Án xử công khai có mặt nguyên đơn, quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 25/9/2024). Bị đơn vắng mặt, quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ Bản án./.
Bản án về tranh chấp hợp đồng vay có cầm cố tài sản số 91/2024/DS-ST
| Số hiệu: | 91/2024/DS-ST |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Ngày ban hành: | 25/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về