Bản án về tranh chấp hợp đồng vay có cầm cố tài sản số 90/2024/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG - THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 90/2024/DS-ST NGÀY 25/09/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY CÓ CẦM CỐ TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 286/2024/TLST-DS ngày 24 tháng 6 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay có cầm cố tài sản; hợp đồng mượn tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 106/2024/QĐXXST-DS ngày 19 tháng 8 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa số: 92/2024/QĐST-DS ngày 05 tháng 9 năm 2024, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Công ty Cổ phần S.

Người đại diện theo pháp luật: Ông K – Chức vụ: Giám đốc Công ty.

Địa chỉ trụ sở chính: Số 128 N, phường B, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Hoàn T – Chức vụ: Nhân viên Công ty Cổ phần S (theo Giấy ủy quyền số 236/2023/UQ-SVN ngày 25/10/2023) (có mặt)

2. Bị đơn: Ông Phạm Quốc T, sinh năm: 1995 (vắng mặt) Địa chỉ: Khu phố 3, phường T, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Vào ngày 20/4/2023, Ông Phạm Quốc T có đến Công ty TNHH S chi nhánh Phan Rang (nay là Công ty Cổ phần S, sau đây gọi tắt là Công ty S) để ký hợp đồng số NJM230401003NA13X cầm cố tài sản là 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA SH MODE mang biển số 85C1-148.44, số khung: RLHJF5107DY058385, số máy: JF51E0058450, giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 85 008513, do Công an tỉnh Ninh Thuận cấp ngày 29/12/2021, để vay số tiền 12.100.000 đồng, lãi suất 1.1%/tháng trên dư nợ thực tế, lãi suất quá hạn 150% mức lãi suất cầm cố, thời hạn cầm cố là 06 tháng (từ ngày 20/4/2023 đến ngày 20/10/2023), phương thức thanh toán theo định kỳ hàng tháng, mỗi tháng thanh toán vào ngày 20 với số tiền gốc và lãi là 2.131.093,63 đồng.

Thực hiện hợp đồng, Công ty S đã giải ngân cho Ông Phạm Quốc T số tiền 12.100.000 đồng (mười hai triệu một trăm nghìn đồng); đồng thời, Công ty đã nhận bảo đảm số tiền cầm cố trên bằng 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA SH MODE mang biển số 85C1-148.44, đăng ký tên chủ xe Phạm Quốc T.

Cùng ngày, ông T đã ký Giấy ủy quyền cho Công ty S được thay mặt ông “quản lý, sử dụng, định đoạt (cho thuê, bán) chiếc xe mang biển số 85C1- 148.44”. Đồng thời, do không có phương tiện đi lại nên ông Phạm Quốc T đã ký Giấy mượn xe với Công ty S để mượn lại chiếc xe 85C1-148.44 đã được cầm cố, thời hạn mượn là 30 ngày (từ ngày 20/4/2023 đến ngày 20/5/2023), hai bên thỏa thuận phí bảo dưỡng và hao mòn xe là: 363.000 đồng/ tháng (nếu ông T thanh toán đúng hạn phí bảo dưỡng và hao mòn xe là: 242.000 đồng/ tháng), phí thu hồi, xử lý tài sản cầm cố: 1.000.000 đồng. Công ty S đồng ý và đã giao tài sản cầm cố là chiếc xe cho ông T quản lý, sử dụng trong thời hạn nêu trên.

Quá trình thực hiện hợp đồng, vào các ngày 19/5/2023, 19/6/2023 và 28/7/2023 của ông T đã thanh toán cho công ty số tiền 7.268.000 đồng (Trong đó: tiền gốc 5.905.976 đồng; tiền lãi 335.021 đồng; phí quản lý hồ sơ 157.282 đồng; phí phạt: 22.713 đồng; phí bảo dưỡng và hao mòn 847.000 đồng). Từ sau ngày 20/7/2023 cho đến nay, ông T đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng cầm cố. Công ty S đã nhiều lần liên hệ qua điện thoại và cử nhân viên đến gặp trực tiếp ông Phạm Quốc T yêu cầu ông thực hiện các nghĩa vụ theo hợp đồng cầm cố đã ký hoặc bàn giao tài sản cầm cố đã mượn lại của Công ty nhưng ông T đều lẫn tránh, không hợp tác.

Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn yêu cầu tòa án giải quyết:

- Yêu cầu ông Phạm Quốc T phải giao trả lại chiếc xe hiệu Honda SH MODE mang biển số 85C1-148.44, số khung: RLHJF5107DY058385, số máy: JF51E0058450 đã cầm cố mà ông T mượn lại của Công ty CP S.

- Trường hợp Ông Phạm Quốc T không thể trả lại xe cầm cố thì phải có nghĩa vụ thanh toán cả gốc lẫn lãi và các loại phí tới thời điểm hiện tại thông qua hợp đồng cầm cố tài sản.

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện hợp pháp của nguyên đơn xin rút lại một phần yêu cầu khởi kiện đối với các yêu cầu buộc ông T phải giao trả lại chiếc xe hiệu Honda SH MODE mang biển số 85C1-148.44, phí phạt trễ hạn, phí mượn xe và phí quản lý hồ sơ.

Giữ nguyên yêu cầu buộc Ông Phạm Quốc T có nghĩa vụ thanh toán cả gốc lẫn lãi, tại thời điểm hiện tại thông qua hợp đồng cầm cố tài sản với khoản tiền tạm tính đến ngày 25/9/2024 là: 7.594.940 đồng (Bảy triệu năm trăm chín mươi bốn nghìn chín trăm bốn mươi đồng), gồm: Nợ gốc: 6.194.024 đồng; Nợ lãi trong hạn: 136.990 đồng; Lãi quá hạn: 1.263.926 đồng.

Buộc ông Phạm Quốc T phải tiếp tục chịu lãi phát sinh theo thỏa thuận đã ký kết kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thanh toán xong nợ.

Sau khi ông T thanh toán hết nợ, Công ty đồng ý trả lại bản chính giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 85 008513, do Công an tỉnh Ninh Thuận cấp ngày 29/12/2021 cho ông T .

Bị đơn - Ông Phạm Quốc T: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận đã thông báo, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng. Tuy nhiên, ông T không đến Tòa án làm việc và không có ý kiến phản hồi gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cũng như các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp, vắng mặt tại phiên tòa hai lần không có lý do.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, cụ thể như sau:

- Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án.

- Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng. Bị đơn đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng tại phiên tòa hôm nay vẫn vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự là thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

- Về nội dung vụ án:

+ Căn cứ Điều 5, khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

+ Các điều: 309, 310, 311, 313, 320, 463, 466, 468, 497 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

+ Điều 26 của Nghị quyết số 326/2020/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, ngày 30/12/2020 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Đề nghị Hội đồng xét xử Đình chỉ đối với các yêu cầu khởi kiện đã rút và chấp nhận các yêu cầu khởi kiện còn lại của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về xác định quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn Công ty Cổ phần S yêu cầu bị đơn ông Phạm Quốc T thanh toán số tiền còn nợ, tiền lãi theo hợp đồng cầm cố tài sản và trả lại tài sản; Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp hợp đồng vay có cầm cố tài sản; hợp đồng mượn tài sản” theo khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn có địa chỉ tại Khu phố 3, phường T, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự; vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.

[1.2] Xử lý về việc vắng mặt của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện thủ tục tống đạt hợp lệ cho ông T. Ông T không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho các đương sự theo quy định của pháp luật nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để giải quyết vụ án. Ông T vắng mặt tại phiên tòa lần thứ nhất không có lý do nên Tòa án hoãn phiên tòa theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa lần thứ hai, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt.

[1.3] Về việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu khởi kiện:

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện hợp pháp của nguyên đơn xin rút lại một phần yêu cầu khởi kiện đối với các yêu cầu buộc ông T phải giao trả lại chiếc xe hiệu Honda SH MODE mang biển số 85C1-148.44; buộc trả phí hao mòn tài sản và phí quản lý hồ sơ. Xét thấy, việc nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định tại Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn không có yêu cầu phản tố nên Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn như đã nêu trên.

[2] Về nội dung vụ án:

Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy:

[2.1] Về hiệu lực của hợp đồng: Ngày 20/4/2023, Ông Phạm Quốc T có ký với Công ty TNHH S Việt Nam chi nhánh Phan Rang (nay là Công ty Cổ phần S) phiếu đăng ký cầm cố xe máy; hợp đồng cầm cố số NJM230401003NA13X (kèm theo phụ lục hợp đồng cầm cố); thông qua Hợp đồng, Công ty cổ phần S đã giải ngân cho ông T số tiền: 12.100.000 đồng và Công ty nhận bảo đảm khoản tiền vay đã giải ngân thông qua việc cầm cố xe hiệu Honda SH MODE mang biển số 85C1-148.44, số khung: RLHJF5107DY058385, số máy: JF51E0058450 do ông T đứng tên chủ sở hữu. Đồng thời, ông T có ký giấy mượn lại chiếc xe nêu trên và được phía Công ty chấp nhận.

Xét thấy, Hợp đồng cầm cố và mượn xe được các bên xác lập trên cơ sở tự nguyện, không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, không bị lừa dối hay bị ép buộc nên đây là hợp đồng hợp pháp phù hợp với quy định của pháp luật.

[2.2] Về nội dung hợp đồng cầm cố:

C ô n g t y Cổ phần S có đăng ký kinh doanh dịch vụ cầm đồ; tại khoản 4 Điều 3 Nghị định 96/2020/NĐ-CP ngày 01/7/2020 của Chính phủ quy định “Kinh doanh dịch vụ cầm đồ, gồm: Kinh doanh dịch vụ cho vay tiền mà người vay tiền phải có tài sản hợp pháp mang đến cơ sở kinh doanh dịch vụ cầm đồ để cầm cố”.

Điều 309 của Bộ luật Dân sự quy định “Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây là gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ”.

Công ty S và ông T giao kết hợp đồng cầm cố tài sản số NJM230401003NA13X, tại Điều 2 của hợp đồng quy định: “SVN đồng ý nhận cầm cố của Khách hàng và cho Khách hàng cầm cố số tiền là 12.100.000 đồng”.

Như vậy, có đủ căn cứ để xác định: Mặc dù hình thức của hợp đồng số NJM230401003NA13X là hợp đồng cầm cố tài sản nhưng nội dung của hợp đồng là thỏa thuận về việc Công ty S cho ông T vay số tiền 12.100.000 đồng và việc ông T cầm cố chiếc xe Honda SH MODE mang biển số 85C1-148.44 cho Công ty S thông qua hợp đồng này là phương thức bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả số tiền nợ đã vay; Nội dung hợp đồng có thỏa thuận về mức lãi suất 1,1%/ tháng, lãi chậm trả tương ứng 150% lãi suất quy định và các loại phí khác, các khoản thu này được tính theo mức %/tháng/dư nợ thực tế; cho thấy, công ty S đã dùng nhiều thuật ngữ khác nhau để tính lãi, phí và phạt hợp đồng nhằm mục thu lãi từ việc cho vay và việc ông T cầm cố xe để nhận tiền và viết giấy mượn lại xe để dùng làm phương tiện đi lại thực chất là để che đậy mục đích giao dịch thật sự giữa hai bên là vay tiền có tính lãi. Vì vậy, có cơ sở xác định hợp đồng giữa các bên là: Hợp đồng vay có cầm cố tài sản và hợp đồng mượn tài sản.

Công ty S đã giải ngân đủ số tiền cho ông Phạm Quốc T theo Hợp đồng số NJM230401003NA13X ngày 20/4/2023. Quá trình thực hiện hợp đồng, ông T chỉ thanh toán được một phần tiền cho nguyên đơn nên đã vi phạm nghĩa vụ trả tiền theo quy định tại Điều 280 và Điều 311 Bộ luật Dân sự năm 2015. Vì vậy, Công ty khởi kiện yêu cầu ông Phạm Quốc T có nghĩa vụ trả số tiền nợ gốc 6.194.024 đồng là phù hợp, nên chấp nhận.

Về yêu cầu tính lãi: Theo nội dung của Hợp đồng số NJM230401003NA13X ngày 20/4/2023, các bên thỏa thuận thời hạn vay là 06 tháng, kể từ ngày 20/4/2023 đến hết ngày 20/10/2023, lãi suất cố định là 1.1%/tháng trên dự nợ thực tế, tính từ ngày ký hợp đồng và nhận tiền; lãi quá hạn tương ứng 150% lãi suất trong hạn. Hàng tháng ông T có nghĩa vụ thanh toán số tiền gốc và lãi là 2.131.093,63 đồng. Từ ngày 19/5/2023 đến ngày 28/7/2023 ông T đã thanh toán được số tiền 7.268.000 đồng cho Công ty mà không có ý kiến hay khiếu nại gì. Kể từ ngày 28/7/2023 đến nay ông T vẫn chưa thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo như thỏa thuận trong hợp đồng; do vậy từ ngày 20/8/2023 C ô n g t y đã chuyển sang nợ quá hạn và áp dụng lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn. Số tiền dư nợ gốc và lãi còn lại mà ông T chưa thanh toán cho C ô n g t y Cổ phần S tính đến ngày 25/9/2024 là 7.594.940 đồng (Trong đó, nợ gốc: 6.194.024 đồng; nợ lãi trong hạn: 136.990 đồng; lãi quá hạn: 1.263.926 đồng).

Căn cứ khoản 6 Điều 29 Nghị định 96/2020/NĐ-CP ngày 01/7/2020 của Chính phủ và khoản 2 Điều 5 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 01/10/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm thì yêu cầu tính lãi của Công ty Cổ phần S là phù hợp với khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 nên chấp nhận.

Về xử lý tài sản cầm cố: Tại phụ lục hợp đồng cầm cố (kèm theo Hợp đồng cầm cố số NJM230401003NA13X ngày 20/4/2023) có quy định về việc xử lý tài sản cầm cố nhưng do nguyên đơn không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Từ các phân tích như trên, Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận các yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần S về việc buộc ông Phạm Quốc T phải trả số tiền còn nợ là 7.594.940 đồng (Trong đó, nợ gốc: 6.194.024 đồng; nợ lãi trong hạn:

136.990 đồng; lãi quá hạn: 1.263.926 đồng). Ông T còn phải chịu lại phát sinh theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ.

Ngay sau khi ông T thanh toán hết nợ, Công ty có nghĩa vụ trả lại bản chính giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 85 008513, do Công an tỉnh Ninh Thuận cấp ngày 29/12/2021 cho ông T.

[2.3] Đối với hợp đồng mượn xe: Do nguyên đơn rút lại yêu cầu Tòa án buộc ông T trả lại xe và buộc ông T trả phí hao mòn xe nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Tòa án đã triệu tập bị đơn ông Phạm Quốc T tham gia tố tụng hợp lệ nhưng ông T vắng mặt. Do đó, ông T đã tự bỏ quyền được chứng minh của mình, phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[4] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, được hoàn trả số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các điều 147, 227, 228, 244, 266, 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ Điều 117, Điều 280, Điều 309, Điều 311, Điều 312, Điều 314, Điều 315, Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Điều 26 Nghị quyết số 326/2020/UBTVQH14 ngày 30/12/2020 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của C ô n g t y Cổ phần S.

Buộc Ông Phạm Quốc T phải có nghĩa vụ trả cho C ô n g t y Cổ phần S tổng số tiền tính đến ngày 25/9/2024 là 7.594.940 đồng (Bảy triệu năm trăm chín mươi bốn nghìn chín trăm bốn mươi đồng). Trong đó, số tiền nợ gốc: 6.194.024 đồng; nợ lãi trong hạn: 136.990 đồng; lãi quá hạn: 1.263.926 đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm; ông Phạm Quốc T còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi phát sinh đối với số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật.

Ngay sau khi ông T thanh toán hết nợ, Công ty Cổ phần S có nghĩa vụ trả lại bản chính giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 85 008513, do Công an tỉnh Ninh Thuận cấp ngày 29/12/2021 cho ông T.

Về xử lý tài sản cầm cố: Công ty Cổ phần S không yêu cầu giải quyết.

2. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về các nội dung buộc ông Phạm Quốc T phải giao trả lại chiếc xe hiệu Honda SH MODE mang biển số 85C1-148.44; buộc trả phí mượn xe là 1.089.000 và phí quản lý hồ sơ: 0,5%/tháng với số tiền là: 57.268 đồng.

3. Về án phí:

3.1. Ông Phạm Quốc T phải chịu: 380.000 đồng (ba trăm tám mươi nghìn đồng – đã làm tròn) án phí dân sự sơ thẩm.

2.2. C ô n g t y Cổ phần S không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn lại số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0002840 ngày 19/6/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.

3. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì Người được thi hành án dân sự, Người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Án xử công khai có mặt nguyên đơn, quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 25/9/2024). Bị đơn vắng mặt, quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ Bản án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

39
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay có cầm cố tài sản số 90/2024/DS-ST

Số hiệu:90/2024/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/09/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;