Bản án về tranh chấp hợp đồng ủy quyền và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 239/2024/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NINH KIỀU, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 239/2024/DS-ST NGÀY 12/09/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN VÀ HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Vào ngày 12 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 205/2024/TLST-DS ngày 03 tháng 4 năm 2024, về “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hợp đồng ủy quyền”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 530/2024/QĐXXST-DS, ngày 29 tháng 7 năm 2024; Quyết định hoãn phiên tòa số 260/2024/QĐST-DS, ngày 23 tháng 8 năm 2024; Giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn:Trần Thị Thu T, sinh năm: 1969 Địa chỉ: 304/20/7 T, phường H, quận N, TP. Cần Thơ

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Văn P, sinh năm 1986 ( Có mặt) Địa chỉ: Tổ D, ấp X, xã T, huyện U, tỉnh Kiên Giang. Địa chỉ liên hệ: 10/21 tổ H, khu vực T, phường T, quận B, thành phố Cần Thơ.

2. Bị đơn:

-Lê Mỹ T1, sinh năm: 1980 Địa chỉ: D, khu vực P, phường T, quận C, TP. Cần Thơ

Có đại diện theo ủy quyền: ông Tôn Huỳnh Văn H, sinh năm 1992 ( Vắng mặt) Địa chỉ: 2, đường C, phường H, quận N, TP Cần Thơ

- Ông Nguyễn Thanh L, sinh năm: 1989 ( Vắng mặt) Địa chỉ: D, khu vực T, phường T, quận B, thành phố Cần Thơ.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Văn phòng C Địa chỉ: C, T, phường A, quận N, TP Cần Thơ;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung, bản tự khai, biên bản hòa giải, nguyên đơn bà Trần Thị Thu T có người đại diện theo ủy quyền cho rằng:

Vào ngày 12/12/2023 nguyên đơn bà T có vay của bà Lê Mỹ T1 số tiền 150.000.000 đồng, thỏa thuận lãi suất 1,5%/tháng, thời hạn vay 24 tháng, việc vay có làm biên nhận mượn tiền, đồng thời theo yêu cầu của bà T1 bà Trần Thị Thu T có ký hợp đồng ủy quyền cho bà Lê Mỹ T1 được chuyển nhượng, thế chấp, tặng cho…. quyền sử dụng đất thửa 183, tờ bản đồ số 31, diện tích 66,60m2, loại đất ODT, gắn liền với căn nhà cấp 3, 01 tầng, diện tích sử dụng 71,33m2, hợp đồng ủy quyền được Văn phòng C công chứng ngày 12/12/2023; Tuy nhiên sau đó nguyên đơn bà T phát hiện bà T1 tiếp tục làm hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ quyền sử dụng đất nhà, đất nêu trên cho ông Nguyễn Thanh L, được Văn phòng C cùng ngày 12/12/2023;

Nay yêu cầu Tòa án giải quyết hủy hợp đồng ủy quyền và tuyên vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn liền với quyền sở hữu nhà nêu trên; Yêu cầu bà T1, ông L trả lại cho bà T giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Bà T đồng ý trả lại cho bà T1 nợ gốc 150.000.000 đồng, lãi suất 7%/năm, kể từ vay cho đến khi nguyên đơn có đơn khởi kiện, do nguyên đơn liên hệ trả mà bị đơn cố tình không gặp để nguyên đơn trả nợ. Nhà, đất nêu trên bà T đang quản lý sử dụng;

- Tại Bản tự khai, Biên bản hòa giải bị đơn bà Lê Mỹ T1 có đại diện theo ủy quyền trình bày:

Bà T1 có quen biết với bà Trần Thị Thu T, bà T1 hỗ trợ tạm ứng cho bà T số tiền 150.000.000 đồng, có thỏa thuận lãi suất, thời gian tạm ứng như nguyên đơn trình bày, hai bên có làm biên nhận mượn tiền ngày 12/12/2023, đồng thời bà T có làm hợp đồng ủy quyền cho bà T được thế chấp, chuyển nhượng… toàn bộ nhà, đất nêu trên được Văn phòng C, và bà T1 đã căn cứ hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng nhà, đất này cho ông Nguyễn Thanh L, cùng ngày 12/12/2023, cũng được Văn phòng C.

Nay qua yêu cầu của nguyên đơn bị đơn bà T không đồng ý vô hiệu hợp đồng ủy quyền và có đơn phản tố yêu cầu: Nếu bà T đồng ý trả lại cho ông Nguyễn Thanh L vốn, lãi 180.000.000 đồng, thì bà T1 đồng ý hủy hai hợp đồng ủy quyền và chuyển nhượng nêu trên theo yêu cầu bà T.

- Tại Bản tự khai, Biên bản hòa giải bị đơn ông Nguyễn Thanh L có đại diện theo ủy quyền trình bày:

Vào ngày 12/12/2023 do có mối quen biết với bà T1, nên bà T1 nói muốn vay Ngân hàng và giữa bà T1 với ông L làm hợp đồng chuyển nhượng nhà, đất nêu trên cho ông L để ông L vay Ngân hàng, nên các bên đã ký hợp đồng chuyển nhượng nhà, đất trên cùng ngày 12/12/2023 được Văn phòng C công chứng, hiện chưa đăng ký sang tên. Ông L có cho bà T1 mượn số tiền 400.000.000 đồng, thỏa thuận lãi suất 5%/tháng trong thời gian đợi Ngân hàng cho vay, nhưng sau đó thì bà T1 báo cho ông L ngưng không thực hiện.Nay ông Nguyễn Thanh L có đơn phản tố yêu cầu: Buộc bà Trần Thị Thu T trả lại cho ông L 290.000.000 đồng, gồm 180.000.000 đồng ( Vốn, lãi) và 110.000.000 đồng phần chia 2 nghĩa vụ với bà T1). Còn lại 110.000.000 đồng thì giữa bà T với ông L tự giải quyết; Khi nào bà T trả xong 290.000.000 đồng, sẽ hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng sẽ trả lại cho bà T bản gốc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;

Tại Văn bản trình bày ý kiến của Văn phòng C số 25/CV-VPCC ngày 08/4/2024 trình bày:

Vào ngày 12/12/2023, Công chứng viên Văn phòng C có tiếp nhận hồ sơ công chứng hợp đồng ủy quyền giữa bà Trần Thị Thu T và bà Lê Mỹ T1, được công chứng số 3276, quyển số 01/2023/TP/CC-SCC/HĐGD; Cùng ngày 12/12/2023 Công chứng viên Văn phòng công chứng tiếp nhận hồ sơ công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của bà Lê Mỹ T1 đại diện theo ủy quyền của bà Trần Thị Thu T chuyển nhượng cho ông Nguyễn Thanh L được Văn phòng C, quyển số 01/2023/TP/CC-SCC/HĐGD; các Hợp đồng này được công chứng đúng trình tự, đúng thủ tục theo quy định của pháp luật.

Đồng thời đại diện Văn phòng công chứng xin miễn tham gia hòa giải, công khai chứng cứ và xin xét xử vắng mặt;

Tại phiên tòa,

- Đại diện nguyên đơn trình bày vẫn giữ nguyên yêu cầu đề nghị Tòa án tuyên bố hợp đồng ủy quyền và hợp đồng chuyển nhượng nêu trên giữa bà T với bà T1, ông L vô hiệu do giả tạo, do các Hợp đồng này đảm bảo cho giấy mượn tiền ngày 12/12/2023;

+ Yêu cầu buộc bà T1 và ông L phải có trách nhiệm trả lại bản gốc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà T;

+ Nguyên đơn bà T đồng ý trả lại bà T1 tiền gốc 150.000.000 đồng và lãi suất 1,5%/tháng tính từ khi vay cho đến khi xét xử;

- Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng:

+ Đối với Thẩm phán, Thư ký đã chấp hành đúng theo Điều 48, 51 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đã xác định đúng về thẩm quyền theo loại việc, theo cấp xét xử và lãnh thổ; xác định về quan hệ pháp luật tranh chấp là đúng; xác định đúng tư cách đương sự; việc thu thập chứng cứ; gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát đúng theo quy định. Tuy nhiên vụ án đã quá thời hạn chuẩn bị xét xử;

+ Đối với Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về trình tự thủ tục điều hành tại phiên tòa; xét xử vắng mặt các đương sự đúng quy định pháp luật tố tụng;

+ Đối với các đương sự, thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên có một số đương sự chưa thực hiện chấp hành theo triệu tập của Tòa án trong xét xử do vắng mặt không lý do.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Trần Thị Thu T tuyên bố vô hiệu hợp đồng ủy quyền giữa bà Trần Thị Thu T với bà Lê Mỹ T1, được Văn phòng C, quyển số 01/2023/TP/CC-SCC/HĐGD, ngày 12/12/2023 và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa bà Lê Mỹ T1 đại diện theo ủy quyền của bà Trần Thị Thu T với ông Nguyễn Thanh L, được Văn phòng C, quyển số 01/2023/TP/CC-SCC/HĐGD, ngày 12/12/2023;

Buộc bà Lê Mỹ T1 và ông Nguyễn Thanh L phải có trách nhiệm trả lại bản gốc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nguyên đơn bà Trần Thị Thu T;

Buộc nguyên đơn bà Trần Thị Thu T phải có trách nhiệm trả cho bị đơn bà Lê Mỹ T1 số nợ vốn là 150.000.000 đồng và lãi suất 1,5%/tháng, tính từ khi vay đến ngày xét xử 12/9/2024; Về án phí: Đề nghị giải quyết theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng:

- Xét về quan hệ pháp luật tranh chấp: Giữa nguyên đơn bà Trần Thị Thu T với bị đơn bà Lê Mỹ T1, ông Nguyễn Thanh L là “Tranh chấp hợp đồng ủy quyền và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”, tranh chấp hợp đồng này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại Khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Do nguyên đơn có đơn lựa chọn Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết và đối tượng tranh chấp là bất động sản ở quận N, thành phố Cần Thơ, nên vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm c Khoản 1 Điều 39; Điểm g khoản 1 Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Đối với các đương sự vắng mặt nhưng có người đại diện hợp pháp tham gia phiên tòa; Vắng mặt nhưng có yêu cầu xin xét xử vắng mặt và vắng mặt nhưng đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nên căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự này theo thủ tục chung.

[2]. Về nội dung: Qua yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu tuyên vô hiệu hợp đồng ủy quyền và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, Hội đồng xét xử xét thấy:

Qua lời trình bày thừa nhận của các đương sự và các chứng cứ thu thập được thì thấy rằng:

Vào ngày 12/12/2023 nguyên đơn bà Trần Thị Thu T có vay của bà Lê Mỹ T1 số tiền 150.000.000 đồng, thỏa thuận lãi suất 1,5%/tháng, thời hạn vay 24 tháng, việc vay có làm biên nhận mượn tiền cùng ngày 12/12/2023 ( Bà T1 cũng thừa nhận có ký kết biên nhận mượn tiền này) và nội dung biên nhận mượn tiền này cũng có ghi nhận bà T cầm cố cho bà T1 bản gốc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 563016, thửa đất số 183, tờ bản đồ số 31, tọa lạc tại 304/20/7, T, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ; Đồng thời bà Trần Thị Thu T có ký hợp đồng ủy quyền cho bà Lê Mỹ T1 được chuyển nhượng, thế chấp, tặng cho…. Quyền sử dụng đất thửa 183, tờ bản đồ số 31, diện tích 66,60m2, loại đất ODT, gắn liền với căn nhà cấp 3, 01 tầng, diện tích sử dụng 71,33m2, hợp đồng ủy quyền được Văn phòng C công chứng số 3276, quyển số 01/2023/TP/CCSCC/HĐGD, ngày 12/12/2023; Tiếp tục cùng ngày 12/12/2023 giữa bà T1 và bà T tiếp tục làm Biên bản sửa đổi, bổ sung biên nhận mượn tiền, theo đó sửa đổi bà T1 được quyền chuyển nhượng sang tên cho bên thứ ba, thế chấp vay ngân hàng; Do đó cùng ngày 12/12/2023 căn cứ vào hợp đồng ủy quyền bà Lê Mỹ T1 đã ký hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản trên đất nêu trên cho ông Nguyễn Thanh L hợp đồng này được Văn phòng C công chứng số 3278, quyển số 01/2023/TP/CC-SCC/HĐGD, ngày 12/12/2023, để nhằm mục đích nhờ ông L vay ngân hàng dùm, việc này giữa bà T1 và ông L có làm tờ thỏa thuận ngày 12/12/2023 với nội dung bà T1 chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên và tài sản gắn liền với đất để vay vốn ngân hàng T3 là 500.000.000 đồng, với tiền công là 25.000.000 đồng; Đồng thời cũng vào ngày 12/12/2023 bà T1 cũng làm giấy mượn tiền ông Nguyễn Thanh L với số tiền là 400.000.000 đồng, thỏa thuận lãi suất là 5%/tháng, thời gian trả khi ngân hàng giải ngân thế chấp tài sản nhà, đất nêu trên, trừ đi tiền mượn, tiền thù lao và lãi phát sinh;

Từ những chứng cứ nêu trên xét thấy hợp đồng ủy quyền giữa bà T với bà T1 và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa bà T1 được bà T ủy quyền ký kết với ông L cả hai hợp đồng này là giả tạo để che giấu và đảm bảo cho hợp đồng vay tài sản và từ khi ký kết hợp đồng cho đến nay các bên cũng không có tiến hành giao nhận quyền sử dụng đất trên thực tế và trong quá trình hòa giải các bên cũng thống nhất có các biên nhận thỏa thuận mượn tiền với nhau giữa bà T với bà T1 và bà T1 với ông L, hiện nay các đương sự chỉ đòi hoàn trả tiền cho nhau; Mặc khác hợp đồng chuyển nhượng này ông L chưa đăng ký chính lý sang tên quyền sử dụng nhà, đất này. Nên giao dịch dân sự về hợp đồng ủy quyền và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất này phải bị vô hiệu theo quy định tại Điều 124, Điều 129 Bộ luật Dân sự và hợp đồng bị che giấu là hợp đồng vay tài sản có hiệu lực.

Về giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo quy định tại Điều 131 Bộ luật Dân sự, các bên phải trả lại cho nhau những gì đã nhận. Xét thấy nhà, đất nêu trên, hiện do bà T vẫn đang quản lý sử dụng, nên không đặt vấn đề xem xét giải quyết; Về Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản trên đất hiện do bà T1, ông L đang quản lý, buộc bà T1, ông L phải có trách nhiệm trả lại cho bà T;

Đối với hợp đồng vay tài sản với số tiền 150.000.000 đồng giữa bà T1 với bà T, bà T thừa nhận có vay của bà T1 số này; Do đó cần buộc nguyên đơn bà T phải trả lại số tiền gốc 150.000.000 đồng cho bị đơn bà T1. Về lãi suất căn cứ lời thừa nhận của bà T và bà T1 và Biên nhận mượn tiền các có thỏa thuận lãi suất là 1,5%/tháng, với thời hạn vay là 24 tháng, xét thấy việc thỏa thuận lãi suất của các bên không vượt quá mức lãi suất quy định tại Khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự, tức 20%/năm, nên cần buộc bà T phải có trách nhiệm trả lãi suất mức 1,5%/tháng tính từ khi vay ngày 12/12/2023 đến ngày xét xử 12/9/2024; Tại phiên tòa bà T cũng đồng ý trả lãi như phân tích trên, cụ thể:

150.000.000 đồng x 1,5%/tháng) x 09 tháng = 20.250.000 đồng; Tổng cộng vốn, lãi phải trả là 170.250.000 đồng;

Đối với số tiền 400.000.000 đồng bà Lê Mỹ T1 nhận từ ông Nguyễn Thanh L, căn cứ giấy mượn tiền đây là hợp đồng vay tài sản giữa bà T1 với ông L, việc thỏa thuận vay tiền này là giữa hai bên và bà T không thừa nhận và không biết bà T1 vay ông L số tiền này; Ngoài ra giữa bà T1 và ông L cũng thừa nhận việc bà T1 ký hợp đồng chuyển nhượng cho ông L là để nhờ ông L vay Ngân hàng dùm, việc bà T1 nhận tiền của ông L là tiền vay chứ không phải nhận tiền từ hợp đồng chuyển nhượng theo hợp đồng ủy quyền của bà T, nên không có căn cứ buộc bà T trả số tiền này cho ông L; Mà nghĩa vụ trả tiền cho ông L là thuộc nghĩa vụ của bà T1; Ngoài ra đối với ông L đã có đơn phản tố trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, Tòa án cũng đã tống đạt thông báo nộp tạm ứng án phí phản tố thông qua người đại diện theo ủy quyền của ông L nhận, nhưng đã quá thời hạn theo quy định, nhưng ông L không nộp, nên không có căn cứ xem xét để giải quyết trong vụ án này; Ông L có quyền khởi kiện đòi nợ bà T1 thành vụ án khác;

[3]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Các đương sự phải nộp án phí theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[4]. Về ý kiến phát biểu nhận xét của Kiểm sát viên việc chấp hành Bộ luật Tố tụng dân sự của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án, các đương sự là có căn cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về đề nghị nội dung giải quyết vụ án của Kiểm sát viên là có căn cứ theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 3 Điều 26; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm c Khoản 1 Điều 39; Điểm g Khoản 1 Điều 40 ; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Điều 116; Điều 117; Điều 124; Điều 131; Điều 463; Điều 466; Điều 468; Điều 502; Điều 503; Điều 562; Điều 407 Bộ luật Dân sự;

- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Trần Thị Thu T tuyên bố vô hiệu hợp đồng ủy quyền giữa bà Trần Thị Thu T với bà Lê Mỹ T1, được Văn phòng C, quyển số 01/2023/TP/CC-SCC/HĐGD, ngày 12/12/2023 và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa bà Lê Mỹ T1 đại diện theo ủy quyền của bà Trần Thị Thu T với ông Nguyễn Thanh L, được Văn phòng C, quyển số 01/2023/TP/CC-SCC/HĐGD, ngày 12/12/2023;

- Tài sản của hai hợp đồng nêu trên là quyền sử dụng đất thửa đất số 183, tờ bản đồ số 31, diện tích 66,60m2, loại đất ở đô thị, gắn liền với căn nhà cấp 3, 01 tầng, diện tích sử dụng 71,33m2; tọa lạc số 304/20/7, đường T, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ; theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H02832.OSĐĐ, được Ủy ban nhân dân quận N, thành phố Cần Thơ cấp ngày 26/5/2008 cho bà Nguyễn Thị T2, chỉnh lý sang tên cho bà Trần Thị Thu T ngày 18/8/2008;

- Buộc ông Nguyễn Thanh L và bà Lê Mỹ T1 phải có trách nhiệm giao trả bản gốc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên cho bà Trần Thị Thu T; Trường hợp ông L, bà T1 không chịu giao trả, bà T có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thu hồi giấy, cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà T, theo quy định của pháp luật về đất đai;

- Buộc nguyên đơn bà Trần Thị Thu T phải có trách nhiệm trả cho bị đơn bà Lê Mỹ T1 số nợ vốn, lãi tổng cộng là 170.250.000 đồng (Một trăm bảy mươi triệu, hai trăm năm mươi ngàn đồng), tính lãi đến ngày 12/9/2024;

Kể từ ngày tiếp theo ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, mà bị đơn chưa trả số tiền trên, thì còn phải chịu lãi suất theo mức lãi suất các bên thỏa thuận, tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Bị đơn bà Lê Mỹ Tl, ông Nguyễn Thanh L mỗi người phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng);

- Nguyên đơn bà Trần Thị Thu T phải nộp án phí phần thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho bị đơn bà T1 là 8.512.500 đồng (Tám triệu, năm trăm mười hai ngàn, năm trăm đồng), nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 600.000 đồng, theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000948, ngày 23/02/2024 tại Chi Cục Thi hành án dân sự quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ. Sau khi khấu trừ còn phải nộp thêm 7.912.500 đồng ( Bảy triệu, chín trăm mười hai ngàn, năm trăm đồng);

Đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại địa phương nơi cư trú.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,9 Luật Thi hành án dân sự thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

11
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng ủy quyền và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 239/2024/DS-ST

Số hiệu:239/2024/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 12/09/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;