TÒA ÁN NHÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 72/2022/DS-ST NGÀY 26/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 26 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Tân Uyên, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 86/2022/TLST-DS ngày 26 tháng 4 năm 2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 89/2022/QĐXXST-DS ngày 07 tháng 9 năm 2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP V; Địa chỉ: phường L, quận Đ, Thành phố Hà Nội.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Phú T, sinh năm 1990; nơi cư trú: khu phố N, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương, là người đại diện theo uỷ quyền. Có mặt.
- Bị đơn: Ông Ngô Duy C, sinh năm 1987 và bà Phan Thị Y, sinh năm 1990; cùng cư trú: Tổ A, khu phố H, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Có yêu cầu xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 23 tháng 3 năm 2022, quá trình tố tụng, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn ông Nguyễn Phú T trình bày:
Ngân hàng TMCP V – Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh (gọi tắt Ngân hàng) có ký với ông Ngô Duy C và bà Phan Thị Y 02 hợp đồng tín dụng, cụ thể:
1. Hợp đồng cho vay số LN1705290064481/HCM/HĐTD ngày 07/06/2017 với nội dung:
Số tiền cho vay: 1.072.000.000 đồng;
Thời hạn vay: 72 tháng từ ngày 07/06/2017 đến ngày 07/6/2023;
Mục đích sử dụng vốn vay: Vay mua ô tô tải ChengLong mới 100%;
Lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm giải ngân là 10.4%/năm cố định trong 06 tháng đầu tiền kể từ thời điểm giải ngân. Sau đó định kỳ điều chỉnh 3 tháng/01 lần. Lãi suất quá hạn bằng 150% lãi trong hạn.
Tài sản bảo đảm khoản vay là 01 xe ô tô tải, nhãn hiệu Chenglong, số khung LGGX5D652HL100195, số máy YC6L31033L3CL1G00545, biển số 61C-275.07 do Phòng Cảnh sát Giao thông Công an tỉnh Bình Dương cấp giấy chứng nhận cho bà Phan Thị Y đứng tên chủ sở hữu ngày 06/6/2017. Theo hợp đồng thế chấp xe ô tô số LN1705290064481/HCM/HĐTCSP ngày 07/06/2017. Chứng nhận đăng ký giao dịch bảo đảm hợp đồng, thông báo kê biên tài sản thi hành án có hiệu lực lúc 9 giờ 2 phút, số đăng ký 1251395956 ký ngày 07/6/2017 tại Trung tâm đăng ký giao dịch tài sản Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Hợp đồng cho vay kiêm hợp đồng thế chấp số LN1806120725786/HCM/HĐTC ký ngày 27/6/2018 với nội dung: Số tiền cho vay: 990.000.000 đồng;
Thời hạn vay: 72 tháng từ ngày 27/6/2018 đến ngày 27/06/2024; Mục đích sử dụng vốn vay: Vay mua xe ô tô tải.
Lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm giải ngân là 8.6%/năm cố định trong 12 tháng đầu tiền kể từ thời điểm giải ngân. Sau đó định kỳ điều chỉnh 3 tháng/01 lần. Lãi suất quá hạn bằng 150% lãi trong hạn.
Tài sản bảo đảm khoản vay là 01 xe ô tô tải, nhãn hiệu Chenglong, số khung LGGX5D656HL435550, số máy YC6L31033L3CL1H00080, biển số 61C-341.71 do Phòng Cảnh sát Giao thông Công an tỉnh Bình Dương cấp giấy chứng nhận cho bà Phan Thị Y đứng tên chủ sở hữu ngày 25/6/2018. Chứng nhận đăng ký giao dịch bảo đảm hợp đồng, thông báo kê biên tài sản thi hành án có hiệu lực lúc 11 giờ 25 phút, số đăng ký 1292197009 ký ngày 27/6/2018 tại Trung tâm đăng ký giao dịch tài sản Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán đối với 02 hợp đồng tín dụng trên. Cụ thể, đối với Hợp đồng cho vay số LN1705290064481/HCM/HĐTD ngày 07/06/2017 bị đơn đã thanh toán cho Ngân hàng tổng cộng 1.164.183.423 đồng, trong đó tiền gốc là 752.618.437 đồng và lãi 411.564.986 đồng; Hợp đồng cho vay kiêm hợp đồng thế chấp số LN1806120725786/HCM/HĐTC ký ngày 27/6/2018 bị đơn đã thanh toán cho Ngân hàng tổng cộng 652.041.210 đồng, trong đó tiền gốc là 412.500.000 đồng và lãi 239.541.210 đồng. Từ ngày 07/05/2021 bị đơn đã không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi theo thỏa thuận nên Ngân hàng đã chuyển nợ quá hạn. Tính đến ngày 06/9/2022, bị đơn còn nợ ngân hàng số tiền là 1.112.323.414 đồng, bao gồm các khoản; tiền nợ gốc là 896.881.563 đồng, lãi là 215.441.851 đồng.
Do đó, Ngân hàng khởi kiện, yêu cầu Toà án giải quyết:
- Buộc ông Ngô Duy C và bà Phan Thị Y liên đới trả cho Ngân hàng TMCP V số tiền là 1.112.323.414 đồng, bao gồm các khoản; tiền nợ gốc là 896.881.563 đồng, lãi là 215.441.851 đồng tính đến ngày 06/9/2022. Kể từ ngày 07/9/2022, ông Ngô Duy C và bà Phan Thị Y phải có nghĩa vụ thanh toán số tiền lãi trên số nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất đã thỏa thuận tại Hợp đồng cho vay số LN1705290064481/HCM/HĐTD ngày 07/06/2017 và Hợp đồng cho vay kiêm hợp đồng thế chấp số LN1806120725786/HCM/HĐTC ký ngày 27/6/2018 cho đến khi thanh toán hết nợ.
- Trường hợp ông Ngô Duy C và bà Phan Thị Y không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ nghĩa vụ trên thì Ngân hàng Thương mại Cổ phần V có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền phát mãi tài sản thế chấp là một xe ô tô tải nhãn hiệu Chenglong, số khung LGGX5D652HL100195, số máy YC6L31033L3CL1G00545, biển số 61C-275.07 do bà Phan Thị Y đứng tên chủ sở hữu và 01 xe ô tô tải, nhãn hiệu Chenglong, số khung LGGX5D656HL435550, số máy YC6L31033L3CL1H00080, biển số 61C- 341.71 do bà Phan Thị Y đứng tên chủ sở hữu để thu hồi nợ.
Quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Ngô Duy C và bà Phan Thị Y trình bày:
Ông Ngô Duy C và bà Phan Thị Y có quan hệ là vợ chồng. Ông C và bà Y thống nhất với toàn bộ lời trình bày của nguyên đơn về quá trình ký kết các hợp đồng tín dụng, số tiền vay, thời hạn vay, lãi suất và tài sản bảo đảm, số tiền còn nợ. Sau khi ký Hợp đồng cho vay số LN1705290064481/HCM/HĐTD ngày 07/06/2017 và Hợp đồng cho vay kiêm hợp đồng thế chấp số LN1806120725786/HCM/HĐTC ký ngày 27/6/2018 thì Ngân hàng đã giải ngân đủ số tiền vay cho ông, bà.
Quá trình thực hiện hợp đồng, ông, bà có thanh toán cho Ngân hàng đầy đủ đến tháng 5/2021 thì không tiếp tục thanh toán đầy đủ do dịch bệnh diễn ra, làm ăn khó khăn.
Nay, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông bà liên đới trả cho Ngân hàng TMCP V số tiền nợ gốc là 896.881.563 đồng và tiền lãi phát sinh tạm tính đến ngày 06/9/2022 là 215.441.851 đồng. Kể từ ngày 07/9/2022, ông, bà phải có nghĩa vụ thanh toán số tiền lãi trên số nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất đã thỏa thuận tại Hợp đồng cho vay số LN1705290064481/HCM/HĐTD ngày 07/06/2017 và Hợp đồng cho vay kiêm hợp đồng thế chấp số LN1806120725786/HCM/HĐTC ký ngày 27/6/2018 cho đến khi thanh toán hết nợ thì ông, bà đồng ý. Nhưng do hoàn cảnh khó khăn không có khả năng trả một lần, xin được trả dần theo tháng.
Đối với tài sản thế chấp là một xe ô tô tải nhãn hiệu Chenglong, số khung LGGX5D652HL100195, số máy YC6L31033L3CL1G00545, biển số 61C- 275.07 do bà Phan Thị Y đứng tên chủ sở hữu và 01 xe ô tô tải, nhãn hiệu Chenglong, số khung LGGX5D656HL435550, số máy YC6L31033L3CL1H00080, biển số 61C-341.71 do bà Phan Thị Y đứng tên chủ sở hữu. Hiện nay 02 chiếc xe này do ông, bà đem đi làm ăn ở tỉnh Đắk Lắk và Phú Yên để chở tràm keo, từ khi ông, bà không thanh toán nợ đầy đủ cho Ngân hàng nên ngân hàng không cung cấp giấy đi đường do đó không đưa xe đến Trụ sở Toà án để tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ được. Đồng ý việc phát mãi tài sản thế chấp trong trường hợp không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng.
Tại phiên tòa:
- Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn yêu cầu bị đơn ông C và bà Y thanh toán số tiền tính đến ngày mở phiên toà ngày 26/9/2022 là 1.121.420.201đồng, trong đó nợ gốc là 896.881.563 đồng và trả lãi là 224.538.638 đồng. Kể từ ngày 27/9/2022, ông Ngô Duy C và bà Phan Thị Y phải có nghĩa vụ thanh toán số tiền lãi trên số nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất đã thỏa thuận tại Hợp đồng cho vay số LN1705290064481/HCM/HĐTD ngày 07/06/2017 và Hợp đồng cho vay kiêm hợp đồng thế chấp số LN1806120725786/HCM/HĐTC ký ngày 27/6/2018 cho đến khi thanh toán hết nợ. Giữ nguyên yêu cầu về việc phát mãi tài sản thế chấp.
- Vị đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa án: Thẩm phán được phân công thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy định tại Điều 203 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự về xét xử sơ thẩm.
Về việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được công bố tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP V về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” đối với ông Ngô Duy C và bà Phan Thị Y. Buộc ông Ngô Duy C và bà Phan Thị Y có nghĩa vụ liên đới thanh toán cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần V tổng số tiền là 1.121.420.201đồng, trong đó nợ gốc là 896.881.563 đồng và trả lãi là 224.538.638 đồng.
Kể từ ngày 27/9/2022, ông Ngô Duy C và bà Phan Thị Y phải có nghĩa vụ thanh toán số tiền lãi trên số nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất đã thỏa thuận tại Hợp đồng cho vay số LN1705290064481/HCM/HĐTD ngày 07/06/2017 và Hợp đồng cho vay kiêm hợp đồng thế chấp số LN1806120725786/HCM/HĐTC ký ngày 27/6/2018 cho đến khi thanh toán hết nợ.
Trường hợp ông Ngô Duy C và bà Phan Thị Y không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ nghĩa vụ trên thì Ngân hàng Thương mại Cổ phần V có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền phát mãi tài sản thế chấp là một xe ô tô tải nhãn hiệu Chenglong, số khung LGGX5D652HL100195, số máy YC6L31033L3CL1G00545, biển số 61C-275.07 do bà Phan Thị Y đứng tên chủ sở hữu và 01 xe ô tô tải, nhãn hiệu Chenglong, số khung LGGX5D656HL435550, số máy YC6L31033L3CL1H00080, biển số 61C- 341.71 do bà Phan Thị Y đứng tên chủ sở hữu để thu hồi nợ.
Những yêu cầu, kiến nghị để khắc phục vi phạm về tố tụng: Không có.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Ngân hàng khởi kiện ông Ngô Duy C và bà Phan Thị Y yêu cầu thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng tín dụng. Ông Ngô Duy C và bà Phan Thị Y có nơi cư trú tại thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Do đó, căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, đây là vụ án về tranh chấp hợp đồng tín dụng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
[1.2] Về sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng: Bị đơn ông Ngô Duy C và bà Phan Thị Y có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Về yêu cầu thanh toán nợ: Quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn và bị đơn đều thống nhất trình bày: Ngân hàng và ông Ngô Duy C, bà Phan Thị Y ký kết hai hợp đồng tín dụng bao gồm: Hợp đồng cho vay ngày 07/6/2017 để vay số tiền 1.072.000.000 đồng và Hợp đồng cho vay kiêm hợp đồng thế chấp ngày 27/6/2018 với số tiền vay là 990.000.000 đồng. Quá trình thực hiện hợp đồng ông C và bà Y đã thanh toán cho Hợp đồng cho vay số LN1705290064481/HCM/HĐTD ngày 07/06/2017 là 1.164.183.423 đồng, trong đó tiền gốc là 752.618.437 đồng, lãi 411.564.986 đồng; Hợp đồng cho vay kiêm hợp đồng thế chấp số LN1806120725786/HCM/HĐTC ký ngày 27/6/2018 là 652.041.210 đồng, trong đó tiền gốc là 412.500.000 đồng, lãi 239.541.210 đồng. Do dịch bệnh, làm ăn khó khăn nên từ ngày 07/5/2021 ông C và bà Y không tiếp tục thanh toán đầy đủ tiền hàng tháng cho Ngân hàng, còn nợ lại Ngân hàng số tiền gốc 896.881.563 đồng và lãi tạm tính đến ngày 06/9/2022 là 215.441.851 đồng. Đây là tình tiết không phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Tại phiên toà, đại diện nguyên đơn xác định lại số tiền lãi tính đến ngày xét xử là 224.538.638 đồng. Yêu cầu ông C và bà Y thanh toán tổng số tiền là 1.121.420.201đồng, trong đó nợ gốc là 896.881.563 đồng, lãi là 224.538.638 đồng. Xét thấy, ông C, bà Y vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông C, bà Y thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ theo hợp đồng tín dụng, yêu cầu ông C, bà Y có nghĩa vụ thanh toán tổng số tiền tính đến ngày 26/9/2022 là 1.121.420.201đồng, trong đó nợ gốc là 896.881.563 đồng và trả lãi là 224.538.638 đồng và tiền lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng tính từ ngày 27/9/2022 cho đến khi thanh toán hết nợ là có cơ sở chấp nhận theo quy định tại Điều 95 Luật Các tổ chức tín dụng.
[2.2] Về yêu cầu phát mãi tài sản thế chấp: Bà Y, ông C và Ngân hàng đã giao kết giao dịch đảm bảo và thế chấp tài sản đối với hai khoản vay trên bằng một xe ô tô tải nhãn hiệu Chenglong, số khung LGGX5D652HL100195, số máy YC6L31033L3CL1G00545, biển số 61C-275.07 do bà Phan Thị Y đứng tên chủ sở hữu và 01 xe ô tô tải, nhãn hiệu Chenglong, số khung LGGX5D656HL435550, số máy YC6L31033L3CL1H00080, biển số 61C- 341.71 do bà Phan Thị Y đứng tên chủ sở hữu. Xét thấy, hợp đồng thế chấp nêu trên thể hiện ý chí thỏa thuận tự nguyện của hai bên, không trái pháp luật, không vi phạm đạo đức xã hội, hợp đồng đã được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định pháp luật nên hợp pháp và có hiệu lực thi hành đối với các bên.
Quá trình giải quyết vụ án, mặc dù ông C và bà Y không đem 02 chiếc xe trên đến Toà án để tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ, tuy nhiên bản chính giấy chứng nhận đăng ký 02 chiếc xe trên vẫn do Ngân hàng giữ, bà Y ông C xác định vẫn đang trực tiếp quản lý 02 xe trên, đồng ý việc phát mãi tài sản thế chấp trong trường hợp không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng.
Do đó, việc Ngân hàng yêu cầu phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi nợ trong trường hợp bà Y, ông C không thực hiện nghĩa vụ trả nợ là phù hợp.
[3] Ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp nên chấp nhận.
[4] Về chi phí tố tụng: Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 1.000.000 đồng. Bị đơn phải chịu số tiền 1.000.000 đồng để hoàn trả cho Ngân hàng.
[5] Về dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị đơn phải chịu án phí đối với phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ:
- Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 91; Điều 92; Điều 147; Điều 157; Điều 158; khoản 2 Điều 227; Khoản 3 Điều 228; Điều 266; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Điều 320; Điều 323 của Bộ luật Dân sự;
- Điều 91; Điều 95 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, sửa đổi bổ sung năm 2017;
- Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
- Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định về lãi, lãi suất, phạt vi phạm;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng Thương mại Cổ phần V đối với bị đơn ông Ngô Duy C và bà Phan Thị Y về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng.
Ông Ngô Duy C và bà Phan Thị Y có nghĩa vụ liên đới thanh toán cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần V tổng số tiền là 1.121.420.201 đồng (Một tỷ một trăm hai mươi mốt triệu bốn trăm hai mươi nghìn hai trăm lẻ một đồng), trong đó nợ gốc là 896.881.563 đồng và lãi là 224.538.638 đồng.
Kể từ ngày 27/9/2022, ông Ngô Duy C và bà Phan Thị Y phải có nghĩa vụ thanh toán số tiền lãi trên số nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất đã thỏa thuận tại Hợp đồng cho vay số LN1705290064481/HCM/HĐTD ngày 07/06/2017 và Hợp đồng cho vay kiêm hợp đồng thế chấp số LN1806120725786/HCM/HĐTC ký ngày 27/6/2018 cho đến khi thanh toán hết nợ.
Trường hợp ông Ngô Duy C và bà Phan Thị Y không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ nghĩa vụ trên thì Ngân hàng Thương mại Cổ phần V có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền phát mãi tài sản thế chấp là một xe ô tô tải nhãn hiệu Chenglong, số khung LGGX5D652HL100195, số máy YC6L31033L3CL1G00545, biển số 61C-275.07 do bà Phan Thị Y đứng tên chủ sở hữu và 01 xe ô tô tải, nhãn hiệu Chenglong, số khung LGGX5D656HL435550, số máy YC6L31033L3CL1H00080, biển số 61C- 341.71 do bà Phan Thị Y đứng tên chủ sở hữu để thu hồi nợ.
2. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Ông Ngô Duy C và bà Phan Thị Y phải chịu số tiền 1.000.000 đồng để hoàn trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần V.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Ngô Duy C và bà Phan Thị Y phải chịu số tiền 45.642.606 đồng (Bốn mươi lăm triệu sáu trăm bốn mươi hai nghìn sáu trăm lẻ sáu đồng).
Hoàn trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần V số tiền 21.985.389 đồng (Hai mươi mốt triệu chín trăm tám mươi lăm nghìn ba trăm tám mươi chín đồng) đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2021/0005898 ngày 26/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Nếu vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ./.
Bản án 72/2022/DS-ST về tranh chấp hợp đồng tín dụng
Số hiệu: | 72/2022/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 26/09/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về