Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 71/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA - TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 71/2022/DS-ST NGÀY 26/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 26 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:

52/2022/TLST-DS ngày 25/01/2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2022/QĐXXST-DS ngày 30/5/2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 685/2022/QĐST-DS ngày 28/6/2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP T;

Đa chỉ: Lầu 8, 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, phường T, quận B, thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Văn Đ. Chức vụ: Chuyên viên quản lý tín dụng. Văn bản ủy quyền số 02/UQ-PGDBH ngày 22/3/2021. Vắng mặt.

Bị đơn: Bà Trần Thị Mỹ H, sinh năm 1987.

Đa chỉ: 91/32/6B, khu phố B, phường P, thành phố H, tỉnh Đồng Nai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn do ông Nguyễn Văn Đoan đại diện trình bày:

Ngày 08/01/2020, bà Trần Thị Mỹ H và Ngân hàng TMCP T (sau đây gọi tắt là Ngân hàng) ký Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng, theo đó Ngân hàng đã cấp thẻ tín dụng Motoe Card Classic 356480-6738 hạn mức 30.000.000 đồng cho bà H, lãi suất 2.5%/tháng, mục đích tiêu dùng cá nhân. Sau khi được cấp thẻ tín dụng, bà H đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 36.629.307 đồng. Trong quá trình sử dụng thẻ, từ ngày kích hoạt thẻ thì bà H chưa thanh toán cho Ngân hàng. Tổng số tiền trên được thanh toán áp dụng Điều 20 của bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng.

Quá trình sử dụng thẻ, bà H đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán, Ngân hàng đã nhắc nhở nhưng bà H không có thiện chí trả nợ. Do đó, ngày 05/8/2020 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu của bà H là 36.629.307 đồng sang nợ quá hạn theo Điều 23 bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng, áp dụng lãi suất nợ quá hạn là 150% của lãi suất được công bố tại thời điểm hiện tại.

Tính đến ngày 25/7/2022, bà H còn nợ Ngân hàng số tiền là 57.629.787 đồng, trong đó nợ gốc là 33.654.239 đồng, nợ lãi quá hạn là 23.975.548 đồng. Ngân hàng yêu cầu bà H phải thanh toán số tiền nêu trên và tiền lãi phát sinh tiếp theo từ ngày 26/7/2022 cho đến khi bà H thanh toán hết nợ cho Ngân hàng.

Ti bản tự khai, quá trình giải quyết vụ án bị đơn bà Trần Thị Mỹ H trình bày:

Ngày 08/01/2020, bà Trần Thị Mỹ H có giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng với Ngân hàng TMCP T để mở thẻ tín dụng số 356480-6738 hạn mức 30.000.000 đồng để tiêu dùng cá nhân theo các chứng cứ tài liệu Ngân hàng cung cấp, cũng như quá trình giao dịch mà Ngân hàng trình bày là đúng. Tính đến ngày 16/5/2022, tổng số tiền bà còn phải thanh toán cho Ngân hàng là 54.610.986 đồng, trong đó nợ gốc là 33.654.239 đồng, nợ lãi quá hạn là 20.956.729 đồng. Do điều kiện khó khăn nên bà chưa trả được số tiền trên cho Ngân hàng. Bà đồng ý đối thanh toán số tiền nợ theo đơn khởi kiện của Ngân hàng.

Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai:

-Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

-Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP T. Về án phí bà H phải chịu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: [1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Ngân hàng TMCP T khởi kiện tranh chấp hợp đồng tín dụng; bị đơn bà Trần Thị Mỹ H có địa chỉ cư trú tại số 91/32/6B, khu phố B, phường P, thành phố H, tỉnh Đồng Nai, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về quan hệ pháp luật: Ngày 08/01/2020, bà H và Ngân hàng ký kết Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, mục đích và nội dung của các hợp đồng phù hợp với quy định tại các Điều 116, 117 Bộ luật dân sự năm 2015 nên có giá trị pháp lý, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng. Nguyên đơn là tổ chức tín dụng, bị đơn là cá nhân nên xác định đây là tranh chấp hợp đồng tín dụng.

[2] Về thủ tục tố tụng: Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà bị đơn có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Ngày 08/01/2020, giữa bà H và Ngân hàng TMCP T (sau đây gọi tắt là Ngân hàng) đã ký “Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng”, theo đó Ngân hàng đã cấp thẻ tín dụng Motoe Card Classic 356480-6738 hạn mức 30.000.000 đồng cho bà H, lãi suất thỏa thuận 2.5%/tháng, mục đích tiêu dùng cá nhân.

Quá trình sử dụng thẻ, bà H đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán, Ngân hàng đã thông báo cho bà H về việc vi phạm Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng để bà H thanh toán nợ nhưng bà H không thực hiện.

Ngày 05/8/2020, Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu của bà H là 36.654.239 đồng sang nợ quá hạn với lãi suất là 150% của lãi suất được công bố tại thời điểm hiện tại là phù hợp với quy định mà các bên đã thỏa thuận theo Điều 23 Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng TMCP T.

Tính đến ngày 25/7/2022, bà H còn nợ Ngân hàng số tiền là 57.629.787 đồng, trong đó nợ gốc là 33.654.239 đồng, nợ lãi quá hạn là 23.975.548 đồng. Bà H cũng đồng ý thanh toán theo yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng.

Căn cứ quy định tại các Điều 90, 91, 95 và Điều 98 Luật các tổ chức tín dụng; các Điều 116, 117, 385, 463, 466, 468 và Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015; Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP, ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của của Ngân hàng TMCP T, buộc bà H phải thanh toán cho Ngân hàng số tiền tính đến ngày 25/7/2022 là 57.629.787 đồng, trong đó nợ gốc là 33.654.239 đồng, nợ lãi quá hạn là 23.975.548 đồng. Kể từ ngày 26/7/2022 bà H còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này.

[4] Về án phí: Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn bà H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền là 2.881.48 đồng. Hoàn trả cho nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 916.000 đồng theo biên lai thu số 0001204 ngày 21/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa.

[7] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[8] Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa về đường lối giải quyết vụ án là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

-Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1, khoản khoản 1 Điều 228, Điều 235, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

-Căn cứ các Điều 90, 91, 95 và Điều 98 Luật các tổ chức tín dụng;

-Căn cứ các Điều 116, 117, 385, 463, 466, 468 và Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015;

-Căn cứ Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP, ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm;

-Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP T.

Buộc bà Trần Thị Mỹ H phải thanh toán cho Ngân hàng TMCP T số tiền tính đến ngày 25/7/2022 là 57.629.787 đồng, trong đó nợ gốc là 33.654.239 đồng, nợ lãi quá hạn là 23.975.548 đồng.

Kể từ ngày 26/7/2022 bà Trần Thị Mỹ H còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này.

2.Về án phí:

Bà Trần Thị Mỹ H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền là 2.881.489 đồng. Hoàn trả cho Ngân hàng TMCP T số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 916.000 đồng, theo biên lai thu số 0001204 ngày 21/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa.

3.Về quyền kháng cáo: Ngân hàng TMCP T và bà Trần Thị Mỹ H được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 71/2022/DS-ST

Số hiệu:71/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;