Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 644/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 644/2021/DS-ST NGÀY 20/05/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 20 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai đối với vụ án dân sự thụ lý số 1258/2020/TLST-DS ngày 12 tháng 8 năm 2020 về việc “Tranh chấp Hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 63/2021/QĐXX-ST ngày 29/3/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần B

Địa chỉ: Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông A; Địa chỉ: Lầu 8, số Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (Văn bản ủy quyền ngày 20/3/2020); (Có đơn đề nghị vắng mặt).

2. Bị đơn: Ông Trần D (Vắng mặt)

Địa chỉ: Đường A, Phường B, quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 24 tháng 7 năm 2020, bản tự khai và các biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày:

Ngày 22 tháng 4 năm 2015, Ngân hàng Thương mại Cổ phần B và ông Trần Văn D ký Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng (Bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản điều khoản, điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng). Căn cứ vào thu nhập của ông D, Ngân hàng đã đồng cấp thẻ tín dụng với tổng hạn mức sử dụng là 30.000.000 (Ba mươi triệu) đồng cho ông D sử dụng với mục đích tiêu dùng cá nhân. Sau khi được cấp thẻ tín dụng, ông D đã sử dụng thẻ để giao dịch với tổng số tiền 57.855.874 đồng. Trong suốt quá trình sử dụng thẻ, ông D đã thanh toán cho Ngân hàng tổng cộng số tiền 54.997.271 đồng. Qua nhiều lần làm việc, nhắc nhở nhưng ông D vẫn không có thiện chí trả nợ cho Ngân hàng. Tính đến ngày 10/02/2020, ông D còn nợ Ngân hàng số tiền: 49.260.110 đồng, trong đó: Nợ gốc: 31.445.402 đồng; Lãi quá hạn: 17.814.708 đồng.

Vì vậy Ngân hàng khởi kiện, yêu cầu bị đơn ông Trần Văn D thanh toán toàn bộ nợ vay phát sinh từ việc sử dụng thẻ tín dụng cho Ngân hàng với tổng số tiền tạm tính đến hết ngày 10/02/2020 số tiền là 49.260.110 đồng cùng với tiền lãi phát sinh tiếp tục tính từ ngày 11/02/2020 cho đến khi trả dứt nợ.

* Bị đơn ông Trần Văn D đã được Tòa án tống đạt Thông báo thụ lý vụ án và triệu tập hợp lệ để trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 12/10/2020, 07/12/2020 nhưng ông D vắng mặt không lý do.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng:

* Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán:

Thông qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm này thấy rằng Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Cụ thể: Thẩm phán xác định, đúng thẩm quyền giải quyết của Tòa án, xác định vụ kiện thuộc trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên tòa; Việc cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng cho đương sự và Viện kiểm sát thực hiện theo đúng quy định từ Điều 170 đến Điều 181 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Tòa án tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ đúng theo quy định tại Điều 209, 210, 211 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Tuy nhiên Thẩm phán còn vi phạm về thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định tại Điều 203 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

* Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa:

Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Thư ký Tòa án đã tuân thủ đúng quy định tại Điều 51 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

* Về việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng:

Đối với nguyên đơn: Từ khi thụ lý vụ án đến phiên tòa hôm nay nguyên đơn đã thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo đúng quy định tại các Điều 70, Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Đối với bị đơn: Từ khi thụ lý vụ án đến phiên tòa hôm nay bị đơn không thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo đúng quy định tại các Điều 70, Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về án phí, do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận toàn bộ nên bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Tòa án nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Quan hệ tranh chấp giữa Ngân hàng Thương mại Cổ phần B và ông Trần Văn D là tranh chấp Hợp đồng tín dụng. Căn cứ khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đây là loại vụ việc tranh chấp về hợp đồng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

Theo kết quả cung cấp chứng cứ của Công an Phường A, quận B: Bị đơn ông Trần Văn D có đăng ký thường trú và đang thực tế cư trú tại Đường 307, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh.

[2] Về thủ tục tố tụng:

Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ bị đơn ông Trần Văn D tham gia phiên tòa sơ thẩm xét xử lần nhất vào ngày 22/4/2021 và lần thứ hai vào ngày 20/5/2021 nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn ông Trần Văn D.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông B có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện ban đầu nên căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt nguyên đơn.

[3] Về nội dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Căn cứ Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng ngày 22/4/2015 (bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản điều khoản, điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng) có chữ ký của ông Trần Văn D; Các Bảng tóm tắt sao kê thẻ tín dụng số 472074-0389 cùng các chứng cứ trong hồ sơ vụ án, có cơ sở xác định nguyên đơn đã cấp thẻ tín dụng cho bị đơn sử dụng với hạn mức 30.000.000 đồng, với mục đích tiêu dùng cá nhân. Sau khi được cấp thẻ tín dụng cho đến nay, bị đơn đã thực hiện các giao dịch với số tiền 57.855.874 đồng + Tiền lãi: 49.860.513 đồng; phí trễ hạn: 3.521.254 đồng; phí vượt hạn mức: 550.000 đồng, phí: 757.000 đồng. Tổng cộng các khoản là: 112.544.641 đồng. Nhưng suốt quá trình sử dụng thẻ bị đơn chỉ thanh toán cho nguyên đơn tổng số tiền 57.997.271 đồng. Ngày 31/8/2018, Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ của bị đơn và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu của bị đơn sang nợ quá hạn theo quy định tại Điều 23 của Bản điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng.

Sau khi ưu tiên thanh toán các loại phí và lãi trong hạn thì tính đến ngày 20/5/2021, ông Trần Văn D còn nợ nguyên đơn số tiền: 60.693.749 (Sáu mươi triệu sáu trăm chín mươi ba ngàn bảy trăm bốn mươi chín) đồng, trong đó:

- Nợ gốc là: 28.445.402 đồng;

- Tiền lãi tính đến ngày 20/5/2021 là: 32.248.347 đồng.

Mặc dù nguyên đơn đã nhắc nhở nhiều lần và tạo điều kiện cho bị đơn trả nợ nhưng bị đơn vẫn không thực hiện nghĩa vụ trả nợ như cam kết tại hợp đồng. Việc vi phạm của bị đơn trong một thời gian dài đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi của nguyên đơn. Do vậy, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn thanh toán nợ gốc là phù hợp với quy định tại Điều 2 của Bản điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng và phù hợp với quy định tại các Điều 471, 474 của Bộ luật Dân sự năm 2005.

Trong hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng các bên đã thống nhất thỏa thuận, lãi suất được áp dụng theo biểu lãi suất thẻ tín dụng, nên việc ông Trần Văn D không thanh toán tiền nợ gốc, lãi theo đúng thời hạn đã thỏa thuận là vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Xem xét về thời gian tính lãi, mức lãi suất và phí trễ hạn, phí vượt hạn mức, phí mà ngân hàng đã áp dụng là hoàn toàn phù hợp thỏa thuận của các bên đương sự được quy định tại Điều 18, Điều 19, Điều 20, Điều 22 và Điều 24 của Bản điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương Tín và phù hợp với quy định tại Khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; khoản 1 Điều 1 Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận; khoản 2 Điều 11 Quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng được ban hành theo Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN gày 31-12-2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước được sửa đổi, bổ sung bằng Quyết đnh s 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03-2- 2005; Điều 8 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao. Do đó, nguyên đơn yêu cầu ông Trần Văn D thanh toán nợ lãi tính đến ngày 20/5/2021 số tiền 32.248.347 đồng là có cơ sở để chấp nhận.

Nguyên đơn yêu cầu bị đơn tiếp tục trả tiền lãi phát sinh trên nợ gốc chưa trả theo lãi suất do hai bên thỏa thuận tại hợp đồng cho đến khi trả xong nợ kể từ ngày 21/5/2021. Xét thấy yêu cầu này của nguyên đơn phù hợp với thỏa thuận tại hợp đồng nên chấp nhận.

Bị đơn vắng mặt không có lý do trong suốt quá trình giải quyết vụ án, mặc dù Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ cho phía bị đơn. Vì vậy, bị đơn đã tự từ bỏ quyền tranh tụng tại Tòa án để bảo vệ quyền lợi cho mình. Do vậy, Hội đồng xét xử không có cơ sở để xem xét cho quyền lợi của bị đơn.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn thanh toán số tiền là 60.693.749 đồng, trong đó bao gồm tiền nợ gốc 28.445.402 đồng và 32.248.347 đồng tiền lãi quá hạn tính đến ngày 20/5/2021 là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật nên có cơ sở để chấp nhận toàn bộ như lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh.

[4] Về án phí sơ thẩm:

Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trên số tiền phải trả cho nguyên đơn.

Nguyên đơn không phải chịu án phí nên được hoàn lại toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 146, Điều 147, Điều 227, Điều 266, Điều 267, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 471 và Điều 474 của Bộ luật dân sự 2005;

Căn cứ Điều 91 của Luật Các tổ chức tín dụng;

Căn cứ Luật Thi hành án dân sự;

Căn cứ Luật án phí, lệ phí Tòa án số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần B.

Ông Trần Văn D có trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần B số tiền còn nợ của Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng cấp ngày 22/4/2015 số tiền là 60.693.749 (Sáu mươi triệu sáu trăm chín mươi ba ngàn bảy trăm bốn mươi chín) đồng, trong đó bao gồm tiền nợ gốc 28.445.402 đồng và 32.248.347 đồng tiền lãi quá hạn tính đến ngày 20/5/2021, thanh toán dứt điểm một lần ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày 21/5/2021, ông D còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc với mức lãi suất theo quy định tại hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng quốc tế ký ngày 22/4/2015 và Bản điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.

Thi hành tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền, ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

2. Án phí dân sự sơ thẩm:

Án phí dân sự sơ thẩm là 3.034.687 (Ba triệu không trăm ba mươi bốn ngàn sáu trăm tám mươi bảy) đồng ông Trần Văn D phải chịu.

Hoàn lại cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần B số tiền tạm ứng án phí đã nộp 1.232.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0088165 ngày 10/8/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Thạnh.

3. Quyền kháng cáo:

Ngân hàng Thương mại Cổ phần B, ông Trần Văn D được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt bản án hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 644/2021/DS-ST

Số hiệu:644/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Thạnh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 20/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;