TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯ M’GAR, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 60/2021/DS-ST NGÀY 28/09/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 28/9/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 96/2021/TLST – DS ngày 08/3/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 70/2021/QĐXX-ST ngày 30 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ngân hàng N.
Địa chỉ: Số 0x đường L, phường Th, quận B, thành phố H.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Tiết Văn Th, chức vụ: Tổng Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trịnh Xuân Tr, chức vụ: Giám đốc Chi nhánh K - Bắc Đ.
Người được người đại diện theo ủy quyền, ủy quyền lại: Ông Trần Nguyên V, chức vụ: Phó Giám đốc Chi nhánh K, Bắc Đ. (vắng mặt - có đơn đề nghị xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Km2x, tỉnh lộ x, xã K, huyện C, tỉnh Đ.
Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1975. (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn x, xã K, huyện C, tỉnh Đ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án người đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn trình bày:
Ngày 26/11/2018 bà Nguyễn Thị Th có ký Hợp đồng tín dụng số: 5230-LAV- 2018011xx với Ngân hàng N- Chi nhánh K, Bắc Đ (Viết tắt là Ngân hàng) vay số tiền 350.000.000 đồng; thời hạn vay: 60 tháng; Mục đích vay: sửa chữa nhà ở, mua sắm vật dụng gia đình; lãi suất cho vay 10,5%/năm; lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn; kỳ hạn trả nợ gốc 05 kỳ: kỳ 1 ngày 26/11/2019 trả 70.000.000 đồng, kỳ 2 ngày 26/11/2020 trả 70.000.000 đồng, kỳ 3 ngày 26/11/2021 trả 70.000.000 đồng, kỳ 4 ngày 26/11/2022 trả 70.000.000 đồng, kỳ 5 ngày 26/11/2023 trả 70.000.000 đồng; trả nợ lãi: 06 tháng/lần.
Từ ngày vay cho đến kỳ hạn trả nợ theo hợp đồng tín dụng, bà Nguyễn Thị Th chưa trả được kỳ nợ gốc nào mà chỉ mới trả được 18.425.343 đồng tiền lãi.
Để đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ, bà Nguyễn Thị Th đã sử dụng tài sản tại Hợp đồng thế chấp Quyền sử dụng đất số: 2410706xx/HĐTC ngày 2x/1x/20xx đã ký giữa bà Nguyễn Thị Th với Ngân hàng, các tài sản thế chấp như sau:
Tài sản 1: Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số BV 6841xx đối với thửa đất số 4x, tờ bản đồ số 9x, diện tích 17x.xm2, địa chỉ thửa đất: Xã K, huyện C, tỉnh Đ do UBND huyện C cấp ngày 2x/x/20xx cho bà Nguyễn Thị Th.
Tài sản 2: Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số CM 6477xx đối với thửa đất số 12x, tờ bản đồ số 2x, diện tích 66xxm2, địa chỉ thửa đất: Xã C, huyện C, tỉnh Đ do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 1x/x/20xx cho ông Hồ Xuân T và bà Nguyễn Thị Ch những thay đổi sau khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị Th có xác nhận của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện C ngày 2x/x/20xx.
Nay Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà Nguyễn Thị Th trả nợ cho Ngân hàng tổng số tiền: 445.014.356 đồng, trong đó: nợ gốc 350.000.000 đồng, lãi trong hạn 85.320.411 đồng, lãi quá hạn 9.693.945 đồng tính đến ngày xét xử sơ thẩm 28/9/2021, tiếp tục tính lãi phát sinh theo mức lãi suất quy định tại hợp đồng tín dụng kể từ ngày 29/9/2021 đến ngày bà Nguyễn Thị Th trả hết nợ gốc cho Ngân hàng; nếu bà Nguyễn Thị Th không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ thì tài sản bảo đảm được cơ quan có thẩm quyền xử lý để thu hồi nợ. Nếu số tiền thu được từ việc xử lý tài sản bảo đảm không đủ trả nợ cho Ngân hàng thì Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự xử lý bất kỳ tài sản nào thuộc quyền sở hữu của bà Th để thu hồi nợ.
Ngày 28/9/2021, nguyên đơn có đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu nếu số tiền thu được từ việc xử lý tài sản bảo đảm không đủ trả nợ cho Ngân hàng thì Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự xử lý bất kỳ tài sản nào thuộc quyền sở hữu của bà Th để thu hồi nợ.
Bị đơn bà Nguyễn Thị Th đã được Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng đều vắng mặt tại các buổi làm việc, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Vì vậy, Tòa án không tiến hành làm việc được với bà Nguyễn Thị Th.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:
Đối với Thẩm phán đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với Thư ký và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Đối với đại diện cho nguyên đơn thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ quy định tại các Điều 70, Điều 71, Điều 86 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Bị đơn bà Nguyễn Thị Th không thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Căn cứ vào các Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 463, Điều 466 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 91, 95 Luật các tổ chức tín dụng. Chấp nhận đơn khởi kiện của N. Bà Nguyễn Thị Th phải trả cho Ngân hàng số tiền nợ gốc 350.000.000 đồng và lãi suất phát sinh theo hợp đồng tín dụng. Nếu bà Nguyễn Thị Th không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng yêu cầu cơ quan chức năng xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Nêu bà Th trả xong nghĩa vụ cho Ngân hàng thì Ngân hàng phải trả các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gốc cho bà Th.
Về án phí: Bà Nguyễn Thị Th phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật tại Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Về thẩm quyền và quan hệ pháp luật: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết về Tranh chấp hợp đồng tín dụng. Bị đơn bà Nguyễn Thị Th cư trú tại thôn x, xã K, huyện C, tỉnh Đ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện được quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về sự vắng mặt của đương sự: Người được người đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn, ủy quyền lại có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn bà Nguyễn Thị Th đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn bà Nguyễn Thị Th và người đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn theo quy định tại khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Về số nợ: Ngày 26/11/2018 bà Nguyễn Thị Th có ký hợp đồng tín dụng số: 5230-LAV-2018011xx với Ngân hàng N - Chi nhánh K, Bắc Đ vay số tiền 350.000.000 đồng; thời hạn vay: 60 tháng; Mục đích vay: sửa chữa nhà ở, mua sắm vật dụng gia đình; lãi suất cho vay 10,5%/năm; lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn; kỳ hạn trả nợ gốc 05 kỳ: kỳ 1 ngày 26/11/2019 trả 70.000.000 đồng, kỳ 2 ngày 26/11/2020 trả 70.000.000 đồng, kỳ 3 ngày 26/11/2021 trả 70.000.000 đồng, kỳ 4 ngày 26/11/2022 trả 70.000.000 đồng, kỳ 5 ngày 26/11/2023 trả 70.000.000 đồng; trả nợ lãi: 06 tháng/lần. Từ ngày vay cho đến kỳ hạn trả nợ theo hợp đồng tín dụng, bà Nguyễn Thị Th chưa trả được kỳ nợ gốc nào mà chỉ mới trả được 18.425.343 đồng tiền lãi.
Xét Hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng với bà Nguyễn Thị Th được giao kết hợp pháp nên phát sinh hiệu lực. Quá trình thực hiện hợp đồng, bà Th đã vi phạm nghĩa vụ thánh toán nợ. Vì vậy, yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng N buộc bà Nguyễn Thị Th trả nợ số tiền: 445.014.356 đồng, trong đó: nợ gốc 350.000.000 đồng, lãi trong hạn 85.320.411 đồng, lãi quá hạn 9.693.945 đồng tính đến ngày xét xử sơ thẩm 28/9/2021 và tiếp tục chịu lãi suất phát sinh theo mức lãi suất tại hợp đồng tín dụng kể từ ngày 29/9/2021 đến ngày trả xong nợ là có căn cứ chấp nhận.
[2.2] Đối với yêu cầu xử lý tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 2410706xx/HĐTC ngày 2x/1x/20xx giữa Ngân hàng với bà Nguyễn Thị Th, tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số BV 6841xx đối với thửa đất số 4x, tờ bản đồ số 9x, diện tích 17x.xm2, địa chỉ thửa đất: Xã K, huyện C, tỉnh Đ do UBND huyện C cấp ngày 2x/x/20xx cho bà Nguyễn Thị Th và quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số CM 6477xx đối với thửa đất số 12x, tờ bản đồ số 2x, diện tích 66xxm2, địa chỉ thửa đất: Xã C, huyện C, tỉnh Đ do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 1x/x/20xx cho ông Hồ Xuân T và bà Nguyễn Thị Ch những thay đổi sau khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị Th có xác nhận của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện C ngày 2x/x/20xx đã được đăng ký giao dịch bảo đảm tại cơ quan có thẩm quyền, hợp đồng được công chứng đúng quy định của pháp luật nên hợp đồng thế chấp là hợp pháp. Do đó, yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của Ngân hàng để thu hồi nợ là có căn cứ chấp nhận.
[2.3] Sau khi bà Nguyễn Thị Th trả nợ xong cho Ngân hàng thì Ngân hàng có trách nhiệm trả lại cho bà Nguyễn Thị Th các bản chính Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số BV 6841xx đối với thửa đất số 4x, tờ bản đồ số 9x, diện tích 17x.xm2, địa chỉ thửa đất: Xã K, huyện C, tỉnh Đ do UBND huyện C cấp ngày 2x/x/20xx cho bà Nguyễn Thị Th và Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số CM 6477xx đối với thửa đất số 12x, tờ bản đồ số 2x, diện tích 66xxm2, địa chỉ thửa đất: Xã C, huyện C, tỉnh Đ do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 1x/x/20xx cho ông Hồ Xuân T và bà Nguyễn Thị Ch những thay đổi sau khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị Th có xác nhận của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện C ngày 2x/x/20xx.
[3] Ngày 28/9/2021, nguyên đơn có đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu nếu số tiền thu được từ việc xử lý tài sản bảo đảm không đủ trả nợ cho Ngân hàng thì Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự xử lý bất kỳ tài sản nào thuộc quyền sở hữu của bà Th để thu hồi nợ là sự tự định đoạt của đương sự nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Về án phí và chi phí tố tụng khác:
Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn bà Nguyễn Thị Th phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Cụ thể: 20.000.000 đồng + 4% x (445.014.356 đồng - 400.000.000 đồng) = 21.801.000 đồng (đã làm tròn số).
Nguyên đơn Ngân hàng N không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và được trả lại tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Do yêu cầu xem xét thẩm định tại chỗ của nguyên đơn là có căn cứ nên bị đơn bà Nguyễn Thị Th phải chịu 3.000.000 đồng tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ. Ngân hàng được nhận lại 3.000.000 đồng tiền tạm ứng chi phí xem xét thẩm định tại chỗ khi thu được từ bà Nguyễn Thị Th.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 144; Điều 147; Điều 157; Điều 158; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Áp dụng Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Áp dụng các Điều 463, Điều 466, Điều 468 của Bộ luật dân sự; các Điều 91, Điều 95 của Luật các tổ chức tín dụng.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng N.
Buộc bà Nguyễn Thị Th có nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng N số tiền 445.014.356 đồng, trong đó: nợ gốc 350.000.000 đồng, lãi trong hạn 85.320.411 đồng, lãi quá hạn 9.693.945 đồng tính đến ngày xét xử sơ thẩm 28/9/2021.
Bà Nguyễn Thị Th tiếp tục chịu lãi phát sinh kể từ ngày 29/9/2021 theo Hợp đồng tín dụng số 5230-LAV-2018011xx ngày 2x/1x/20xx cho đến khi trả xong nợ gốc.
Sau khi bà Nguyễn Thị Th trả xong nợ thì Ngân hàng có trách nhiệm trả lại cho bà Nguyễn Thị Th Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số BV 6841xx đối với thửa đất số 4x, tờ bản đồ số 9x, diện tích 17x.xm2, địa chỉ thửa đất: Xã K, huyện C, tỉnh Đ do UBND huyện C cấp ngày 2x/x/20xx cho bà Nguyễn Thị Th và Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số CM 6477xx đối với thửa đất số 12x, tờ bản đồ số 2x, diện tích 66xxm2, địa chỉ thửa đất: Xã C, huyện C, tỉnh Đ do Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Đ cấp ngày 1x/x/20xx cho ông Hồ Xuân T và bà Nguyễn Thị Ch những thay đổi sau khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị Th có xác nhận của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện C ngày 2x/x/20xx.
Trường hợp bà Nguyễn Thị Th không trả nợ hoặc trả nợ không đầy đủ cho Ngân hàng thì Ngân hàng có quyền yêu cầu xử lý tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 2410706xx/HĐTC ngày 2x/1x/20xx, tài sản thế chấp là Quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất đối thửa đất số 4x, tờ bản đồ số 9x, diện tích 17x.xm2, địa chỉ thửa đất: Xã K, huyện C, tỉnh Đ theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số BV 6841xx do UBND huyện Cư M’gar cấp cấp ngày 2x/x/20xx cho bà Nguyễn Thị Th và thửa đất số 12x, tờ bản đồ số 2x, diện tích 66xxm2, địa chỉ thửa đất: Xã C, huyện C, tỉnh Đ theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số CM 6477xx do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 1x/x/20xx cho ông Hồ Xuân T và bà Nguyễn Thị Ch những thay đổi sau khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị Th có xác nhận của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện C ngày 2x/x/20xx để thu hồi nợ.
2. Về án phí và chi phí tố tụng khác:
Về án phí: Bà Nguyễn Thị Th phải chịu 21.801.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Ngân hàng N được nhận lại số tiền 10.324.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk theo biên lai thu số AA/2019/0019849 ngày 04/3/2021.
Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Bà Nguyễn Thị Th phải chịu 3.000.000 đồng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ. Ngân hàng được nhận lại 3.000.000 đồng tiền tạm ứng chi phí xem xét thẩm định tại chỗ khi thu được từ bà Nguyễn Thị Th.
Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án hợp lệ.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 60/2021/DS-ST
Số hiệu: | 60/2021/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cư M'gar - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 28/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về