Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 35/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 35/2022/DS-ST NGÀY 19/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 19 tháng 7 năm 2022, tại Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 40/2022/TLST-DS ngày 04 tháng 4 năm 2022 về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 90/2022/QĐXXST-DS ngày 13 tháng 6 năm 2022, Quyết định hoãn phiên toà số 43/2022/QĐST-DS ngày 30/6/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng Q(V) Địa chỉ: Tầng 1 và Tầng 2, Tòa nhà Sailing Tower -111A Pasteur, phường B, Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Hàn Ngọc V - Tổng giám đốc.

Đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Thành C - Giám đốc thu hồi nợ trực tiếp và xử lý nợ- Trung tâm QLN NHBL. Địa chỉ: Tầng M, Tòa nhà Hồng Hà, số 25 Lý Thường Kiệt, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.

Người được ủy quyền lại: Ông Nguyễn Hà D - Cán bộ Ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt Nam. Địa chỉ: Tầng M, Tòa nhà Hồng Hà, số 25 Lý Thường Kiệt, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. (Có mặt)

Bị đơn: Ông Nguyễn Công C, sinh năm 1971; bà Phạm Thị H, sinh năm 1976. Địa chỉ: Thôn Nam Tiến 2, xã X, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các bản tự khai tiếp theo, nguyên đơn Ngân hàng Q(V) do ông Nguyễn Hà D - người được uỷ quyền lại trình bày:

Ngày 05/10/2020, Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (V), chi nhánh Ba Đình ký Hợp đồng tín dụng số 9943376.20 với ông Nguyễn Công C, bà Phạm Thị H. Nội dung hợp đồng: Số tiền giải ngân 700.000.000 đồng; mục đích giải ngân thanh toán mua 01 xe ô tô nhãn hiệu Huyndai; thời hạn vay 72 tháng từ ngày 05/10/2020 đến ngày 05/10/2026; lãi suất tại thời điểm giải ngân 9,4%/ năm. Lãi suất này là lãi suất ưu đãi (so với lãi suất thông thường là lãi suất cơ sở trong kỳ cộng biên độ 3,3%/năm) và chỉ được áp dụng trong 12 tháng đầu tiên kể từ ngày giải ngân khoản vay. Hết thời hạn ưu đãi nói trên, lãi suất được điều chỉnh lại 03 tháng một lần bằng lãi suất cơ sở theo sản phẩm theo quy định của Ngân hàng tại thời điểm điều chỉnh cộng biên độ 4,1%/năm. Hoàn trả khoản vay gốc hàng tháng vào ngày 25 (mỗi tháng trả là 9.730.000 đồng. Số còn lại trả vào cuối kỳ). Hoàn trả lãi hàng tháng vào ngày 25 ngày trả nợ đầu tiên là ngày 25/10/2020; trả phí theo quy định của Ngân hàng từng thời kỳ; lãi quá hạn bằng 150% lãi trong hạn. Ngân hàng đã giải ngân cho ông C, bà H theo Đơn đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ số 9943376(1).20 ngày 05/10/2020 với số tiền 700.000.000 đồng theo đúng yêu cầu của khách hàng và phù hợp với Hợp đồng tín dụng.

Bảo đảm cho khoản vay, ông C, bà H thế chấp cho Ngân hàng 01 xe ô tô Huyndai Solati theo hợp đồng thế chấp phương tiện vận tải số 4780731.20 ngày 05/10/2020.

Quá trình thực hiện hợp đồng ông C, bà H đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ gốc và lãi phát sinh. Ngân hàng yêu cầu Toà án buộc ông C, bà H phải trả cho Ngân hàng số tiền tạm tính đến ngày 09/6/2022 là 744.578.668 đồng (gồm 631.890.000 đồng tiền gốc, 21.675.530 đồng nợ lãi, 91.013.138 đồng nợ lãi quá hạn) và tiếp tục tính lãi, lãi quá hạn kể từ ngày 09/6/2022 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ theo quy định tại Hợp đồng tín dụng, Đơn đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ; không yêu cầu xử lý tài sản thế chấp.

Bị đơn ông Nguyễn Công C, bà Phạm Thị H được Tòa án gửi bảo đảm theo đường bưu điện các văn bản tố tụng gồm: Thông báo thụ lý vụ án; giấy báo; thông báo về việc giao nộp tài liệu chứng cứ; thông báo về phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ và phiên hòa giải; thông báo hoãn phiên phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ và phiên hòa giải; thông báo kết quả phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ và phiên hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên toà. Đồng thời, Toà án đã xác minh tại địa phương và người thân của ông C xác định ông C và bà H vẫn cư trú, sinh sống tại thôn Nam Tiến 2, xã X, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Do không tống đạt được trực tiếp các văn bản tố tụng cho ông C, bà H nên Toà án đã tiến hành niêm yết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên toà:

Nguyên đơn do người được uỷ quyền lại là ông Nguyễn Hà D trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử (viết tắt HĐXX) buộc ông Nguyễn Công C, bà Phạm Thị H trả cho Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam tổng số tiền 758.400.333 đồng gồm:

Tiền gốc 631.890.000 đồng, nợ lãi là 21.675.530 đồng, nợ lãi quá hạn là 104.834.803 đồng trong Hợp đồng tín dụng tính ngày xét xử 19/7/2022 và giữ nguyên ý kiến, yêu cầu khác trong quá trình giải quyết vụ án.

Bị đơn ông Nguyễn Công C, bà Phạm Thị H: Đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên toà.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng, nguyên đơn trong quá trình tố tụng giải quyết vụ án và tại phiên tòa đã thực hiện đầy đủ, đúng quy định pháp luật. Bị đơn không chấp hành đúng quy định tại Điều 70, Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị HĐXX áp dụng các Điều 26, 35, 39, 147, 227, 228, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 463, Điều 466, 468 Bộ luật Dân sự 2015; Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng; Điều 37 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Q(V). Buộc ông Nguyễn Công C, bà Phạm Thị H phải trả cho Ngân hàng tổng số tiền tính đến ngày xét xử sơ thẩm 19/7/2022 là: 758.400.333 đồng trong đó số tiền nợ gốc: 631.890.000 đồng, số tiền nợ lãi: 126.510.333 đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm 19/7/2022 cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

- Về yêu cầu kiến nghị, khắc phục vi phạm: Không

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng:

[1]. Thẩm quyền giải quyết vụ án: Ngân hàng Qkhởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Công C, bà Phạm Thị H trả nợ theo các hợp đồng tín dụng đã ký. Nguyên đơn làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang là nơi bị đơn cư trú giải quyết là đúng theo quy định tại Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Quan hệ pháp luật tranh chấp: Ngân hàng Qcho ông Nguyễn Công C, bà Phạm Thị H vay tiền để thanh toán mua xe ô tô. Nay nguyên đơn khởi kiện đòi tiền theo hợp đồng tín dụng. Căn cứ Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự, khoản 16 Điều 4, Điều 90, Điều 91, Điều 94, Điều 95, Điều 98 của Luật các tổ chức tín dụng, Toà án nhân dân huyện Lạng Giang thụ lý, giải quyết vụ án dân sự, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.

[3]. Về sự vắng mặt của bị đơn: Bị đơn ông Nguyễn Công C, bà Phạm Thị H đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. HĐXX căn cứ vào Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, tiếp tục xét xử vụ án vắng mặt những người này.

[4]. Về việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Tại phiên toà nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện về việc tính lãi đến ngày xét xử. Xét thấy việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không làm bất lợi cho bị đơn, không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu. Căn cứ Điều 244 BLTTDS, HĐXX chấy nhận việc thay đổi yêu cầu của nguyên đơn.

Về nội dung: Yêu cầu của các đương sự

[5]. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đề nghị buộc ông C, bà H phải trả nợ gốc, tiền lãi:

HĐXX thấy Hợp đồng tín dụng số 9943376.20, đơn đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ số 9943376(1).20 ngày 05/10/2020 có nội dung số tiền vay, thời hạn vay, mục đích, lãi suất cho vay rõ ràng, hình thức đảm bảo; việc ký hợp đồng tín dụng và đơn đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ là đúng quy định hợp đồng vay tài sản tại Điều 463 Bộ luật dân sự năm 2015. Do ông C, bà H vi phạm nghĩa vụ trả nợ, Ngân hàng yêu cầu trả số tiền gốc còn nợ 631.890.000 đồng. HĐXX thấy rằng ông C, bà H vay số tiền này trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng nên yêu cầu của Ngân hàng buộc ông C, bà H cùng có trách nhiệm liên đới phải trả số tiền gốc còn nợ 631.890.000 đồng, là phù hợp với quy định tại khoản 16 Điều 4, Điều 90, Điều 91, Điều 94, Điều 95, Điều 98 của Luật các tổ chức tín dụng; Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 27, Điều 37 của Luật hôn nhân và gia đình.

Về tiền lãi (lãi trong hạn, quá hạn): Ngân hàng yêu cầu tính lãi trong hạn, lãi quá hạn theo Hợp đồng tín dụng số 9943376.20, đơn đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ số 9943376(1).20 ngày 05/10/2020, HĐXX thấy: Mức lãi suất hai bên thỏa thuận trong hợp đồng là hoàn toàn tự nguyện. Do đó, ông C, bà H không thực hiện nghĩa vụ trả nợ nên phải chịu lãi trong hạn, lãi quá hạn theo yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng tính đến hết ngày xét xử sơ thẩm 19/7/2022 là: 126.510.333 đồng (gồm lãi trong hạn 21.675.530 đồng, lãi quá hạn 104.834.803 đồng), phù hợp với khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng, Ngoài ra, Ngân hàng yêu cầu tiếp tục tính lãi theo đúng thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng cho đến ngày ông C, bà H thực tế thanh toán hết nợ cho Ngân hàng là phù hợp với hướng dẫn về xác định lãi suất trong hợp đồng tín dụng tại thời điểm xét xử sơ thẩm quy định tại Điều 13 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Tòa án nhân dân tối cao quy định về lãi, lãi suất, phạt vi phạm.

Do vậy, yêu cầu của Ngân hàng đề nghị Toà án buộc ông C, bà H phải thanh toán tổng số tiền 631.890.000 đồng + 21.675.530 đồng + 104.834,803 đồng = 758.400.333 đồng tính đến ngày 19/7/2022, trong Hợp đồng tín dụng số 9943376.20, đơn đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ số 9943376(1).20 ngày 05/10/2020; kể từ ngày tiếp theo của ngày 19/7/2022, ông C, bà H còn phải chịu lãi đối với khoản tiền chưa thanh toán theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng và đơn đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ là có căn cứ chấp nhận.

Bảo đảm cho khoản vay, giữa Ngân hàng và ông C, bà H có ký hợp đồng thế chấp tài sản. Song Ngân hàng không yêu cầu xử lý tài sản thế chấp trong trường hợp ông C, bà H không trả nợ nên HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết.

[6] Về án phí:

Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận; nguyên đơn không phải chị án phí nên được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

[7] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 144, Điều 147 Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273, Điều 278 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 463, Điều 466, Điều 468 Bộ luật Dân sự; Điều 90, Điều 91, Điều 94, Điều 95, Điều 98 Luật các tổ chức tín dụng; Điều 27, Điều 37 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Q(V). Buộc ông Nguyễn Công C, bà Phạm Thị H phải trả cho Ngân hàng Q(V) tổng số tiền tính đến ngày xét xử sơ thẩm 19/7/2022 là: 758.400.333đ (bảy trăm năm mươi tám triệu bốn trăm nghìn ba trăm ba mươi ba đồng) trong đó số tiền nợ gốc: 631.890.000 đồng, số tiền nợ lãi: 126.510.333 đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm 19/7/2022 cho đến khi thi hành án xong, bên thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng số 9943376.20 ngày 05/10/2020, đơn đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ số 9943376(1).20 ngày 05/10/2020. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, đơn đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà bên phải thi hành án phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay và văn bản quy phạm pháp luật quy định về lãi suất có hiệu lực tại thời điểm điều chỉnh lãi suất.

2. Về án phí:

Ông Nguyễn Công C, bà Phạm Thị H phải chịu 34.336.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Ngân hàng Q(V) không phải chịu án phí. Hoàn trả Ngân hàng Q(V) 30.085.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0012770 ngày 01/4/2022 của chi cục thi hành án dân sự huyện Lạng Giang.

3. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết bản án theo quy định pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b, 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy đinh tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

123
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 35/2022/DS-ST

Số hiệu:35/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 19/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;