Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 28/2024/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 28/2024/DS-ST NGÀY 26/03/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 26 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án Dân sự sơ thẩm thụ lý số: 103/2023/TLST-DS ngày 27 tháng 10 năm 2023, về việc: “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 152/2023/QĐXXST-DS ngày 13/12/2023; Quyết định hoãn phiên toà số:161/2023/QĐST -DS ngày 29/12/2023 và thông báo mở lại phiên toà số: 10/TB-TA ngày 11/3/2024, giữa các đương sự:

+ Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP V.

Trụ sở: số H L, phường L, quận Đ, thành phố Hà Nội.

Đại diện theo pháp luật: ông Ngô Chí D - Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng Quản trị V1.

Tổ chức kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của Ngân hàng TMCP V là Công ty TNHH Một Thành Viên M. Trụ sở: tầng 12, Toà nhà V, số I D, phường D, quận C, thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Bùi Công T - Giám đốc Công ty TNHH Một Thành Viên M.

Người được ủy quyền: Ông Đinh Hồng L - Chuyên viên xử lý nợ.

Ông Nguyễn Duy L1 - Chuyên viên xử lý nợ.

Ông Nguyễn Mạnh C - Chuyên viên xử lý nợ.

(Tại phiên toà có mặt ông Nguyễn Mạnh C là đại diện được ủy quyền).

+ Bị đơn: Ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1969.

Bà Đỗ Thị D1, sinh năm 1968.

Đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Văn K là: Bà Đỗ Thị D1.

Trú tại: thôn T, xã T, huyện M, thành phố Hà Nội.

+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn Q, sinh năm 1994 (con của ông K và bà D1). Trú tại: nhà số H ngõ A, thôn T, xã T, huyện M, thành phố Hà Nội.

(Tại phiên toà ông K, bà D1 và anh Q đều vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện đề ngày 29/08/2023 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà đại diện nguyên đơn - Ngân hàng TMCP V cũng như tổ chức kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của Ngân hàng TMCP V là Công ty TNHH Một Thành Viên M trình bày:

Ngân hàng TMCP V (gọi tắt là Ngân hàng V1) cùng ông Nguyễn Văn K và bà Đỗ Thị D1 đã ký Hợp đồng cho vay số: LN1912282044381 ngày 02/01/2020. số tiền cho vay: 420,000,000 đồng. Thời hạn vay: 120 tháng. Mục đích vay: Vay tiêu dùng mua sắm nội thất gia đình. Lãi suất và kỳ điều chỉnh: Lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm giải ngân: 9,9%/năm (lãi suất được tính theo năm với một năm là 365 ngày). Trong khoảng thời gian 06 tháng kể từ ngày 06/01/2020 lãi suất cho vay trong hạn là 9,9%. Hết thời hạn trên lãi suất cho vay sẽ được điều chỉnh định kỳ 03 tháng/lần vào các 01/01, 01/04, 01/07 và 01/10 hàng năm, ngày điều chỉnh lãi suất đầu tiên là 06/7/2020, ngày điều chỉnh sau đó vào ngày 01/10/2020. Mức điều chỉnh lãi suất được xác định bằng mức Lãi suất cơ sở VND áp dụng đối với khoản vay có tài sản bảo đảm dành cho khách hàng cá nhân kỳ hạn 120 tháng được bên ngân hàng công bố có hiệu lực tại thời điểm điều chỉnh cộng (+) biên độ 4%/năm.

- Lãi suất quá hạn được xác định như sau:

+ Lãi suất cho vay áp dụng đối với dư nợ gốc quá hạn bằng 150% mức lãi suất cho vay trong hạn áp dụng tại thời điểm chuyển nợ quá hạn.

+ Lãi suất chậm trả áp dụng đối với tiền lãi chậm trả bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn áp dụng tại thời điểm chậm trả lãi nhưng tối đa không quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

- Phương thức trả nợ tiền gốc và lãi tiền vay: Bên vay phải trả nợ gốc cho bên ngân hàng định kỳ 01 tháng/lần vào ngày 15. Kỳ trả nợ gốc đầu tiên được trả vào ngày 15/02/2020, tổng cộng gồm 120 kỳ. số tiền nợ gốc mà Bên vay phải trả mỗi kỳ là 3.500.000 đồng, riêng kỳ cuối cùng trả 3.500.000đồng. Các kỳ trả nợ lãi: Bên vay phải trả tiền lãi cho Bên Ngân hàng theo định kỳ 1 tháng/lần, kỳ trả nợ lãi đầu tiên vào ngày 15/02/2020.

- Tài sản bảo đảm của các khoản vay: Toàn bộ Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 38, tờ bản đồ số 13, diện tích 264m2, tại địa chỉ xã T, huyện M, thành phố Hà Nội theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất S 266788 do UBND huyện M cấp ngày 25/6/2002 cho hộ Nguyễn Văn K; ngày 20/9/2019 tại Văn phòng Đ chi nhánh huyện M đã đăng ký sang tên tặng cho ông Nguyễn Văn K theo hồ sơ số 190919 - 0037. Tài sản đã thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của người khác số công chứng: 09/2020 Quyển số: 01 - 20 TP/CC-SCC/HĐGD ký ngày 02/01/2020 tại Văn phòng C1 và đăng ký thế chấp tại Văn phòng Đ - Chi nhánh huyện M ngày 03/01/2020.

Quá trình sử dụng tiền vay vốn ngân hàng ông K và bà D1 đã trả được nợ gốc 131.500.000đồng và nợ lãi 118.177.703đồng. Tổng cộng là 249.677.703đồng. Kể từ ngày 15/6/2020 vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo kỳ và chịu lãi nợ quá hạn. Tính đến ngày 29/12/2023 ông K và bà D1 còn nợ lại ngân hàng số tiền là: Nợ gốc: 288.500.000đồng; Nợ lãi trong hạn: 10.917.978đồng; nợ lãi quá hạn 87.214.861 đồng; Lãi chậm trả: 7.264.784đồng. Tổng cộng 393.897.623đồng.

Do ông K và bà D1 đã vi phạm kỳ trả nợ gốc và nợ lãi theo thoả thuận tại điểm c khoản 8 Điều 2 của Hợp đồng cho vay số LN19122820443 81 ngày 02/01/2020: “Khoản 8 quy định: “Chấm dứt cho vay, thu hồi nợ trước hạn: Các bên thống nhất rằng bên Ngân hàng có quyền (nhưng không có nghĩa vụ) chấm dứt cho vay, dừng giải ngân và thu hồi toàn bộ dư nợ vay còn lại của B vay trước thời hạn trong những trường hợp sau đây: ......C, Bên vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ gốc, lãi, phí, chi phí và bất kỳ nghĩa vụ tài chính nào khác đối với Bên Ngân hàng (bao gồm nghĩa vụ trả nợ theo bất kỳ K1 trả nợ gốc, K1 trả nợ lãi nào) theo thoả thuận giữa Bên Ngân hàng và Bên vay tại Hợp đồng, điều kiện giao dịch chung và các văn bản thoả thuận liên quan”.

Quá trình thực hiện Hợp đồng cho vay, ông K và bà D2 đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ, Ngân hàng V1 đã rất nhiều lần gửi thông báo/ gọi điện cho ông K nhưng ông K thay số điện thoại và đi làm xa.

Ngân hàng V1 khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội giải quyết các yêu cầu sau:

a) Buộc ông Nguyễn Văn K và bà Đỗ Thị D1 phải thanh toán cho Ngân hàng V1 toàn bộ số tiền nợ gốc, nợ lãi và các khoản chi phí phát sinh liên quan theo Hợp đồng cho vay số: LN1912282044381 ngày 02/01/2020, tính đến ngày 29/12/2023 dư nợ của khoản vay, gồm: Nợ gốc: 288.500.000đồng; Nợ lãi trong hạn: 10.917.978 đồng; nợ lãi quá hạn 87.214.861 đồng; Lãi chậm trả: 7.264.784 đồng. Tổng cộng 393.897.623 đồng.

b) Đề nghị Tòa án tiếp tục tính lãi quá hạn theo đúng thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng cho đến ngày ông K và bà D1 thực tế thanh toán hết nợ cho Ngân hàng V1.

c) Đề nghị Tòa án tuyên trong bản án/Quyết định về việc Ngân hàng V1 có quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án kê biên, phát mại tài sản đảm bảo để thu hồi nợ, là: Toàn bộ quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và thửa đất số 38; tờ bản đồ số 13 có địa chỉ tại: xã T, huyện M, thành phố Hà Nội; Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất sổ s 266788, số vào sổ cấp GCN: 20515 QSDĐ/320 QĐUB do UBND huyện M, thành phố Hà Nội cấp ngày 25/06/2002; ngày 20/09/2019 tại Văn phòng Đ chi nhánh huyện M đã đăng ký sang tên tặng cho ông Nguyễn Văn K theo hồ sơ số 190919- 0037. Tài sản được đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp tài sản còn lại không đủ bảo đảm cho nghĩa vụ của khoản vay, thì V1 có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án tiếp tục kê biên phát mại các tài sản khác của ông Nguyễn Văn K và bà Đỗ Thị D1 để thu hồi nợ.

Trong quá trình giải quyết vụ án, ngày 25/01/2024 Toà án nhân dân huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội nhận được công văn số 367/2024/CV-Mars của Công ty TNHH Một Thành Viên M: về việc chuyển giao, kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng tại toà án giữa Ngân hàng TMCP V với Công ty TNHH Một Thành Viên M.

Với nội dung: Ngày 30/12/2023 Ngân hàng TMCP V và Công ty TNHH Một Thành Viên M đã ký kết hợp đồng mua bán nợ số 03/2023/VPB-MARS ngày 30/12/2023 và phụ lục đính kèm. Ngân hàng TMCP V đồng ý bán và Công ty TNHH Một Thành Viên M đã đồng ý mua khoản nợ của khách hàng vay là ông Nguyễn Văn K và bà Đỗ Thị D1 bao gồm các khoản nợ gốc, nợ lãi, nợ lãi quá hạn, tiền phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và các nghĩa vụ tài chính khác (nếu có) phát sinh theo Hợp đồng tín dụng/Hợp đồng cho vay mà ông Nguyễn Văn K và bà Đỗ Thị D1 đã ký với Ngân hàng. Đồng thời Ngân hàng TMCP V chuyển giao quyền chủ nợ, Công ty TNHH Một Thành Viên M kế thừa đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của Ngân hàng đối với khoản nợ đã mua và quyền đối với tài sản bảo đảm liên quan đến khoản nợ của ông Nguyễn Văn K và bà Đỗ Thị D1. Đồng thời xuất trình Hợp đồng mua bán nợ cùng các văn bản pháp lý liên quan và đề nghị tiếp tục giải quyết vụ án, buộc ông Nguyễn Văn K và bà Đỗ Thị D1 phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Công ty TNHH Một Thành Viên M theo Hợp đồng mua bán nợ số 03/2023/VPB-MARS ngày 30/12/2023 và phụ lục đính kèm, cụ thể:

a) Buộc ông Nguyễn Văn K và bà Đỗ Thị D1 phải thanh toán cho Công ty TNHH Một Thành Viên M toàn bộ số tiền nợ gốc, nợ lãi và các khoản chi phí phát sinh liên quan theo Hợp đồng tín dụng số LN1912282044381 ngày 02/01/2020, tính đến ngày 26/3/2024, gồm các khoản: Nợ gốc: 288.500.000đồng; Nợ lãi trong hạn: 10.917.978đồng; nợ lãi quá hạn: 101.717.322đồng; Lãi chậm trả: 9.975.860đồng. Tổng cộng: 411.111.159đồng.

b) Đề nghị Tòa án tiếp tục tính lãi quá hạn theo đúng thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng cho đến ngày ông thực tế thanh toán hết nợ cho Công ty TNHH Một Thành Viên M.

c) Đề nghị Tòa án tuyên trong bản án/Quyết định về việc Công ty TNHH Một Thành Viên M có quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án kê biên, phát mại tài sản đảm bảo để thu hồi nợ, là:Toàn bộ quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và thửa đất số 38; tờ bản đồ số 13 có địa chỉ tại: xã T, huyện M, thành phố Hà Nội; Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số S 266788, số vào sổ cấp GCN: 20515 QSDĐ/320 QĐUB do UBND huyện M, thành phố Hà Nội cấp ngày 25/06/2002; ngày 20/09/2019 tại Văn phòng Đ chi nhánh huyện M đã đăng ký sang tên tặng cho ông Nguyễn Văn K theo hồ sơ số 190919-0037. Tài sản được đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp tài sản còn lại không đủ bảo đảm cho nghĩa vụ của khoản vay, thì Công ty TNHH Một Thành Viên M có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án tiếp tục kê biên phát mại các tài sản khác của ông Nguyễn Văn K và bà Đỗ Thị D1 để thu hồi nợ.

* Bị đơn: ông Nguyễn Văn K và bà Đỗ Thị D1 vắng mặt tại phiên toà trình bày tại biên bản lấy lời khai và biên bản hòa giải: Vợ chồng tôi có vay vốn tại Ngân hàng V1 theo Hợp đồng cho vay số: LN1912282044381 ngày 02/01/2020. Số tiền cho vay: 420,000,000 đồng. Thời hạn vay: 120 tháng. Mục đích vay: Vay tiêu dùng mua sắm nội thất gia đình. Lãi suất và kỳ điều chỉnh: Lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm giải ngân: 9,9%/năm (lãi suất được tính theo năm với một năm là 365 ngày). Trong khoảng thời gian 06 tháng kể từ ngày 06/01/2020 lãi suất cho vay trong hạn là 9,9%. Hết thời hạn trên lãi suất cho vay sẽ được điều chỉnh định kỳ 03 tháng/lần vào các 01/01, 01/04, 01/07 và 01/10 hàng năm, ngày điều chỉnh lãi suất đầu tiên là 06/7/2020, ngày điều chỉnh sau đó vào ngày 01/10/2020. Mức điều chỉnh lãi suất được xác định bằng mức Lãi suất cơ sở VND áp dụng đối với khoản vay có tài sản bảo đảm dành cho khách hàng cá nhân kỳ hạn 120 tháng được bên ngân hàng công bố có hiệu lực tại thời điểm điều chỉnh cộng (+) biên độ 4%/năm.

- Lãi suất quá hạn được xác định như sau:

+ Lãi suất cho vay áp dụng đối với dư nợ gốc quá hạn bằng 150% mức lãi suất cho vay trong hạn áp dụng tại thời điểm chuyển nợ quá hạn.

+ Lãi suất chậm trả áp dụng đối với tiền lãi chậm trả bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn áp dụng tại thời điểm chậm trả lãi nhưng tối đa không quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

Tài sản bảo đảm của các khoản vay: Toàn bộ Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 38, tờ bản đồ số 13, diện tích 264m2, tại địa chỉ xã T, Huyện M, thành phố Hà Nội theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất S 266788 do UBND huyện M cấp ngày 25/6/2002 cho hộ Nguyễn Văn K; ngày 20/9/2019 tại Văn phòng Đ chi nhánh huyện M đã đăng ký sang tên tặng cho ông Nguyễn Văn K theo hồ sơ số 190919 - 0037. Tài sản đã thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của người khác số công chứng: 09/2020 Quyển số: 01 - 20 TP/CC-SCC/HĐGD ký ngày 02/01/2020 tại Văn phòng C1 và đăng ký thế chấp tại Văn phòng Đ - Chi nhánh huyện M ngày 03/01/2020.

Quá trình sử dụng tiền vay vốn ngân hàng V2 đã trả được được nợ gốc 131.500.000 đồng và nợ lãi 118.177.703 đồng. Tổng cộng là 249.677.703 đồng. Nhưng do làm ăn khó khăn, có tháng trả được, có tháng không trả được nên trả nợ không đúng với kỳ trả nợ theo thỏa thuận của Hợp đồng dẫn đến nợ quá hạn.

Đến ngày 23/11/2023, vợ chồng ông bà còn nợ Ngân hàng số tiền: Nợ gốc: 288.500.000đồng; Nợ lãi: 92.035.214 đồng; Lãi chậm trả: 6.271.593đồng. Tổng cộng 386.806.807đồng.

Ờ trên tài sản thế chấp có vợ chồng ông bà và con trai Nguyễn Văn Q.

Trên đất có nhà cấp bốn xây 01 tầng xây dựng năm 2008 và khu bếp do ông bà xây dựng, ngoài ra không có ai đóng góp gì vào việc xây dựng trên. Nhà đất vẫn nguyên hiện trạng không có thay đổi, bổ sung so với thời điểm thế chấp tại Ngân hàng.

Nay Ngân hàng yêu cầu vợ chồng bà phải trả số tiền vay theo Hợp đồng cho vay, tính đến ngày 23/11/2023, còn nợ lại trên. Quan điểm của vợ chồng ông bà là do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên đề nghị ngân hàng cho được tiếp tục thực hiện hợp đồng là đóng tiền trả nợ gốc và nợ lãi hàng tháng như cũ. Vì hiện nay gia đình đang tập trung làm ăn đề có kinh tế trả nợ dần cho ngân hàng.

Sau buổi làm việc ngày 23/11/2023, ông K đi làm tại thành phố Hồ Chí Minh thỉnh thoảng mới về. Ông ủy quyền cho vợ là bà Đỗ Thị D1, sinh năm 1968. số căn cước công dân: 001168021425 do Cục cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội cấp ngày 04/4/2021 là người đại diện thay ông tham gia tố tụng và thực hiện các quyền và nghĩa vụ cho ông tại Toà án các cấp.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: anh Nguyễn Văn Q trình bày anh là con của ông K và bà D1 sinh sống trên nhà đất thế chấp. Anh có quan điểm để cho gia đình anh trả nợ dần ngân hàng.

Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ: xem xét thẩm định tại chỗ đối với tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản trên đất có 01 ngôi nhà một tầng đổ bê tông mái bằng nằm ở phía tây thửa đất, xây dựng năm 2008; 01 khu bếp xây gạch chỉ xây năm 2008; sân đổ trị xi măng năm 2009. Toàn bộ tài sản trên đất đều xây dựng trước thời điểm thế chấp và không có thay đổi gì. Hiện nay ở trên nhà đất thế chấp có vợ chồng ông K, bà D1 và con trai là Nguyễn Văn Q sinh sống.

Tòa án tiến hành các phiên họp kiểm tra việc, giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Tại phiên họp lần thứ nhất các bên đều có mặt thống nhất được về nợ gốc và nợ lãi, tuy nhiên không thoả thuận được thời gian trả nợ. Tòa án tiến hành phiên họp kiểm tra việc, giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải lần thứ hai bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt.

Tại phiên tòa:

Đại diện theo ủy quyền của tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn là Công ty TNHH Một Thành Viên M giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và xin rút một phần yêu cầu đòi nợ lãi chậm trả: 9.975.860đồng đối với ông K và bà D1. Còn lại các yêu cầu khác giữ nguyên.

Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà.

Y kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Mỹ Đức (Thẩm phán, Thư ký tòa án) đã thụ lý, thu thập chứng cứ và đưa vụ án ra xét xử theo đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về việc chấp hành pháp luật của các đương sự: Nguyên đơn đã thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không thực hiện hết các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và vắng mặt tại phiên toà đến lần thứ 2.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Một Thành Viên M là tổ chức kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn Ngân hàng V1 buộc bị đơn ông Nguyễn Văn K và bà Đỗ Thị D1 phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Công ty TNHH Một Thành Viên M, tính đến ngày 26/03/2024, tổng số tiền nợ gốc và nợ lãi phải trả là: 401.135.300đồng theo Hợp đồng cho vay số: LN1912282044381 ngày 02/01/2020. Trong đó: Nợ gốc: 288.500.000đồng; Nợ lãi trong hạn: 10.917.978đồng; nợ lãi quá hạn: 101.717.322đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, ông Nguyễn Văn K và bà Đỗ Thị D1 còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất hai bên đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.

Trường hợp ông Nguyễn Văn K và bà Đỗ Thị D1 không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với số tiền nợ gốc, tiền lãi, lãi phát sinh và các chi phí khác được quy định trong Hợp đồng cho vay thì Công ty TNHH Một Thành Viên M có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mại tài sản bảo đảm là toàn bộ Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 38, tờ bản đồ số 13, diện tích 264m2, tại địa chỉ xã T, huyện M, thành phố Hà Nội theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất s 266788 do UBND huyện M cấp ngày 25/6/2002 cho hộ Nguyễn Văn K; ngày 20/9/2019 tại Văn phòng Đ chi nhánh huyện M đã đăng ký sang tên tặng cho ông Nguyễn Văn K theo hồ sơ số 190919 - 0037. Tài sản đã thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của người khác số công chứng: 09/2020 Quyển số: 01 - 20 TP/CC-SCC/HĐGD ký ngày 02/01/2020 tại Văn phòng C1 và đăng ký thế chấp tại Văn phòng Đ - Chi nhánh huyện M ngày 03/01/2020.

Về án phí sơ thẩm: Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Ngân hàng V1 khởi kiện yêu cầu thanh toán nợ theo Hợp đồng tín dụng đối với ông Nguyễn Văn K và bà Đỗ Thị D1 nên thuộc tranh chấp về Hợp đồng tín dụng theo khoản 3 Điều 26 và điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn ông Nguyễn Văn K và bà Đỗ Thị D1 có hộ khẩu thường trú tại: thôn T, xã T, huyện M, thành phố Hà Nội nên thuộc thẩm quyền thụ lý của Tòa án nhân dân huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Quá trình giải quyết vụ án tại toà án, sau khi Toà án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử nguyên đơn Ngân hàng V1 đã bán toàn bộ khoản nợ của ông Nguyễn Văn K và bà Đỗ Thị D1 cho Công ty TNHH Một Thành Viên M theo hợp đồng mua bán nợ số 03/2023/VPB-MARS ngày 30/12/2023 và phụ lục đính kèm. Ngày 25/01/2024 Công ty TNHH Một Thành Viên M có công văn số 367/2024/CV-Mars: về việc chuyển giao, kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng tại toà án giữa Ngân hàng V1 cho Công ty TNHH Một Thành Viên M và đề nghị Toà án tiếp tục mở phiên toà giải quyết vụ án. Ngày 05/02/2024 Toà án đã ra thông báo về việc chuyển giao về quyền và nghĩa vụ số: 01/2024/TB-TA gửi cho các bên đương sự. Việc chuyển giao quyền yêu cầu giữa Ngân hàng V1 với Công ty TNHH Một Thành Viên M được thực hiện theo quy định tại Điều 365 và 368 Bộ luật Dân sự nên Công ty TNHH Một Thành Viên M là tổ chức kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của Ngân hàng V1 theo quy định tại khoản 4 Điều 74 Bộ luật tố tụng dân sự. Vì vậy, Công ty TNHH Một Thành Viên M kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn có quyền yêu cầu bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP V.

Về sự vắng mặt của các đương sự: Bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Hội đồng xét xử áp dụng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự để tiến hành xét xử vắn mặt bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

[2]. Về pháp luật nội dung: Tổ chức kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của Ngân hàng V1 là Công ty TNHH Một Thành Viên M yêu cầu ông Nguyễn Văn K và bà Đỗ Thị D1 phải thanh toán tổng số tiền (tạm tính đến ngày 26/3/2024) là: 401.135.300đồng theo Hợp đồng cho vay số: LN1912282044381 ngày 02/01/2020. Trong đó: Nợ gốc: 288.500.000đồng; nợ lãi trong hạn: 10.917.978đồng; nợ lãi quá hạn: 101.717.322đồng.

Hội đồng xét xử nhận thấy:

[2.1]. Về hợp đồng: Ngày 02/01/2020, Ngân hàng V1 cùng ông Nguyễn Văn K và bà Đỗ Thị D1 tự nguyện ký kết Hợp đồng cho vay số: LN1912282044381 ngày 02/01/2020. Nội dung các bên thỏa thuận trong hợp đồng về số tiền vay là 420.000.000 đồng, thời hạn cho vay: 120 tháng, hạn trả nợ gốc, lãi/kỳ, mục đích vay: vay tiêu dùng mua sắm nội thất gia đình; lãi suất và hình thức giải ngân hoàn toàn phù hợp với các điều 116, 117, 119 Bộ luật dân sự và khoản 2 Điều 91 Luật các Tổ chức tín dụng và quy định của Ngân hàng N. Xét thấy, tại thời điểm ký kết Hợp đồng cho vay, các bên tham gia ký kết hợp đồng hoàn toàn tự nguyện, có đủ thẩm quyền, đủ năng lực hành vi dân sự; mục đích và nội dung thỏa thuận trong hợp đồng không vi phạm điều cấm, không trái đạo đức xã hội, hình thức và nội dung hợp đồng cho vay phù hợp với quy định tại các điều 116, 117, 119 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 91 Luật các Tổ chức tín dụng nên Hợp đồng cho vay số: LN1912282044381 ngày 02/01/2020 là hợp pháp, có hiệu lực và làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.

[2.2]. Quá trình thực hiện hợp đồng: Ngân hàng V1 đã giải ngân cho ông Nguyễn Văn K và bà Đỗ Thị D1 số tiền 420.000.000 đồng bằng hình thức chuyển khoản. Như vậy, Ngân hàng V1 đã thực hiện đúng, xong nghĩa vụ của mình, về phía bị đơn ông K và bà D1 sau khi được giải ngân đã sử dụng vốn, đồng thời đã thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ với Ngân hàng V1 cho đến hết ngày 15/6/2020 vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo kỳ thỏa thuận trong hợp đồng và thực hiện trả nợ khi ngân hàng đã khởi kiện tại toà án đến ngày 23/11/2023, ông K và bà D1 trả nợ gốc 131.500.000đồng và nợ lãi 118.177.703đồng. Tổng cộng đã trả là 249.677.703đồng.

Tính đến ngày 26/3/2024 ông K và bà D1 còn nợ lại số tiền nợ gốc theo Hợp đồng là: 288.500.000đồng. Theo thỏa thuận tại điềm a khoản 6 Điều 2 của Hợp đồng cho vay số: LN1912282044381, thì: “Bên vay phải trả nợ gốc cho bên ngân hàng định kỳ 01 tháng/lần vào ngày 15 (sau đây gọi là kỳ trả nợ gốc). Kỳ trả nợ gốc đầu tiên được trả vào ngày 15/02/2020, tổng cộng gồm 120 kỳ. số tiền nợ gốc mà Bên vay phải trả mỗi kỳ là 3.500.000đồng, riêng kỳ cuối cùng trả 3.500.000đồng”. Do ông K và bà D1 không thanh toán đúng kỳ trả nợ nên từ ngày 15/6/2020 đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ mà hai bên đã thỏa thuận trong hợp đồng. Ông K và bà D1 cũng thừa nhận do ông bà khi nào có tiền thì ông bà nộp vào tài khoản để trả nợ. Do đó, nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả nợ số tiền nợ gốc còn lại 288.500.000đồng là có căn cứ và phù hợp theo quy định tại Điều 463 và 466 của Bộ luật dân sự và Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng.

[2.2]. Xét, số tiền nợ lãi:

Theo quy định tại khoản 2 Điều 91 của Luật Các tổ chức tín dụng: “Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật... ” Xét mức lãi suất trong hạn đối với Hợp đồng cho vay số: LN1912282044381 ngày 02/01/2020, các bên thỏa thuận là 9,9%/năm (lãi suất được tính theo năm với một năm là 365 ngày). Trong khoảng thời gian 06 tháng kể từ ngày 06/01/2020 lãi suất cho vay trong hạn là 9,9%. Hết thời hạn trên lãi suất cho vay sẽ được điều chỉnh định kỳ 03 tháng/lần vào các 01/01, 01/04, 01/07 và 01/10 hàng năm, ngày điều chỉnh lãi suất đầu tiên là 06/7/2020, ngày điều chỉnh sau đó vào ngày 01/10/2020. Mức điều chỉnh lãi suất được xác định bằng mức Lãi suất cơ sở VND áp dụng đối với khoản vay có tài sản bảo đảm dành cho khách hàng cá nhân kỳ hạn 120 tháng được bên ngân hàng công bố có hiệu lực tại thời điểm điều chỉnh cộng (+) biên độ 4%/năm. Lãi suất quá hạn được xác định như sau: Lãi suất cho vay áp dụng đối với dư nợ gốc quá hạn bằng 150% mức lãi suất cho vay trong hạn áp dụng tại thời điểm chuyền nợ quá hạn. Lãi suất chậm trả áp dụng đối với tiền lãi chậm trả bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn áp dụng tại thời điểm chậm trả lãi nhưng tối đa không quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả Như vậy, thỏa thuận trong hợp đồng về lãi suất giữa Ngân hàng với ông K và bà D1 phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010. Nguyên đơn đã cung cấp các Quyết định về việc ban hành các Biểu lãi suất cơ sở VNĐ áp dụng đối với khoản vay TSBĐ dành cho KHCN nên ông K và D1 đã có thông tin về việc cho vay và lãi suất cho vay, đã được đảm bảo về quyền lợi theo quy định của pháp luật. Đối chiếu vào Bảng tính lãi (tính đến ngày 26/3/2024) đối với Hợp đồng cho vay số: LN1912282044381 ngày 02/01/2020 thì: Nợ lãi trong hạn: 10.917.978đồng; nợ lãi quá hạn: 101.717.322đồng.

Hội đồng xét xử xét thấy lãi suất được tính và điều chỉnh theo từng thời kỳ, phù hợp với lãi suất cơ bản do Ngân hàng N công bố đối với loại cho vay tương ứng với các quy định của pháp luật. Đến nay, bị đơn chưa thanh toán nên đã làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, do đó nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả số tiền lãi trên là có cơ sở chấp nhận.

Tại phiên toà đại diện của theo ủy quyền Công ty TNHH Một Thành Viên M rút một phần yêu cầu đối với ông K và bà D1 về khoản tiền lãi chậm trả: 9.975.860đồng. Xét việc rút một phần yêu cầu trên là đúng pháp luận nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Do vậy, yêu cầu đòi nợ gốc và nợ lãi tính đến ngày 26/3/2024 của Công ty TNHH Một Thành Viên M đối với ông K và bà D1 được chấp nhận là: Nợ gốc: 288.500.000đồng; nợ lãi trong hạn: 10.917.978đồng; nợ lãi quá hạn: 101.717.322đồng. Tổng cộng: 401.135.300đồng.

[3]. Xét yêu cầu xử lý tài sản thế chấp: đối với Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 38, tờ bản đồ số 13, diện tích 264m2, tại địa chỉ xã T, huyện M, thành phố Hà Nội theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất S 266788 do UBND huyện M cấp ngày 25/6/2002 cho hộ Nguyễn Văn K; ngày 20/9/2019 tại Văn phòng Đ chi nhánh huyện M đã đăng ký sang tên tặng cho ông Nguyễn Văn K theo hồ sơ số 190919 - 0037. Tài sản đã thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất đề đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của người khác số công chứng: 09/2020 Quyển số: 01-20 TP/CC-SCC/HĐGD ký ngày 02/01/2020 tại Văn phòng C1 và đăng ký thế chấp tại Văn phòng Đ - Chi nhánh huyện M ngày 03/01/2020. Xét Hợp đồng thế chấp đã được các bên tự nguyện ký kết tại Ngân hàng V1 được lập thành văn bản, các bên chủ thể tham gia giao kết là người có thẩm quyền, cùng thống nhất về quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng, nội dung của hợp đồng thế chấp không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội; hợp đồng được công chứng tại Văn phòng C1 và đăng ký thế chấp tại Văn phòng Đ chi nhánh huyện M ngày 03/01/2020. Do đó, Hợp đồng thế chấp nêu trên có hiệu lực thi hành. Vì vậy, Công ty TNHH Một Thành Viên M kế thừa quyền, nghĩa vụ của Ngân hàng V1 và được chuyển giao quyền yêu cầu đề nghị phát mại tài sản theo hợp đồng thế chấp để thu hồi nợ trong trường hợp ông K không trả được nợ là có căn cứ, hoàn toàn phù hợp với quy định bị xử lý theo Điều 299 và Điều 368 của Bộ luật dân sự để thu hồi nợ.

Tại phiên Tòa hôm nay ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm và đề xuất hướng giải quyết phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên ghi nhận.

[4]. Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm trên tổng số tiền phải thanh toán theo quy định của pháp luật. Trả lại người kế thừa quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Mỹ Đức.

[5]. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Từ nhận định trên.

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 74; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 135; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các điều 241, khoản 2 Điều 292, 293, 299, 317, 320, 322, 365, 368, 463, 466, 470 của Bộ luật Dân sự;

Căn cứ các Điều 91; 95; 98 của Luật các Tổ chức tín dụng.

Nghị định số: 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm;

Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 163/2006/NĐ-CP.

Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 của Chính phủ quy định thi hành Bộ luật dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.

Căn cứ Nghị quyết 03/2018/NQ-HĐTP ngày 15/05/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ tại Toà án nhân dân;

Căn cứ Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của tổ chức kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn Ngân hàng TMCP V là Công ty TNHH Một Thành Viên M đối với ông Nguyễn Văn K và bà Đỗ Thị D1.

2. Buộc ông Nguyễn Văn K và bà Đỗ Thị D1 phải trả nợ cho Công ty TNHH Một Thành Viên M số tiền vay theo Hợp đồng cho vay số: LN1912282044381 ngày 02/01/2020, tính đến ngày 26/3/2024, tổng số tiền nợ gốc và nợ lãi phải trả là: 401.135.300đồng (Bắn trăm linh một triệu, một trăm ba mươi lăm nghìn, ba trăm đồng); trong đó nợ gốc: 288.500.000đồng; nợ lãi trong hạn: 10.917.978đồng; nợ lãi quá hạn: 101.717.322đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, ông Nguyễn Văn K và bà Đỗ Thị D1 còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất hai bên đã thỏa thuận trong hợp đồng cho vay. Trường hợp trong hợp đồng các bên có thỏa thuận về điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Công ty TNHH Một Thành Viên M theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

3. Xử lý tài sản thế chấp: Trường hợp ông Nguyễn Văn K và bà Đỗ Thị D1 không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ đối với số tiền nợ gốc, tiền lãi, lãi phát sinh và các chi phí khác được quy định trong Hợp đồng thì Công ty TNHH Một Thành Viên M có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mại tài sản bảo đảm là toàn bộ Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 38, tờ bản đồ số 13, diện tích 264m2, tại địa chỉ xã T, huyện M, thành phố Hà Nội theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất S 266788 do UBND huyện M cấp ngày 25/6/2002 cho hộ Nguyễn Văn K; ngày 20/9/2019 tại Văn phòng Đ chi nhánh huyện M đã đăng ký sang tên tặng cho ông Nguyễn Văn K theo hồ sơ số 190919 - 0037. Tài sản đã thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của người khác số công chứng: 09/2020 Quyển số: 01 - 20 TP/CC-SCC/HĐGD ký ngày 02/01/2020 tại Văn phòng C1 và đăng ký thế chấp tại Văn phòng Đ - Chi nhánh huyện M ngày 03/01/2020. Trường hợp phát mại tài sản trên nhưng chưa đủ đề thu hồi nợ thì ông Nguyễn Văn K và bà Đỗ Thị D1 phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả hết nợ cho Công ty TNHH Một Thành Viên M. Trường hợp phát mại tài sản để thu hồi nợ còn thừa thì trả lại cho bên thế chấp.

Trường hợp ông Nguyễn Văn K và bà Đỗ Thị D1 trả xong toàn bộ khoản nợ trên thì Công ty TNHH Một Thành Viên M phải có nghĩa vụ hoàn trả cho ông Nguyễn Văn K và bà Đỗ Thị D1 các giấy tờ về tài sản thế chấp và yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký giao dịch bảo đảm xoá đăng ký.

Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Quốc hội, buộc ông Nguyễn Văn K và bà Đỗ Thị D1 phải chịu 20.045.412đồng (Hai mươi triệu, không trăm bốn mươi lăm nghìn, bốn trăm mười hai đồng) án phí Dân sự sơ thẩm.

Trả lại tổ chức kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của Ngân hàng TMCP V là Công ty TNHH Một Thành Viên M số tiền: 9.000.000 đồng (Chín triệu đồng) tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số: 0007516 ngày 26/10/2023 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Mỹ Đức, Hà Nội.

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kề từ ngày tuyên án. Bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

82
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 28/2024/DS-ST

Số hiệu:28/2024/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Đức - Hà Nội
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;