Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 18/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN G, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 18/2022/DS-ST NGÀY 05/04/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Trong ngày 05-4-2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 128/2020/TLST-DS ngày 26 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2022/QĐXXST-DS ngày 14-02-2022, giữa:

- Nguyên đơn: Ngân hàng N; địa chỉ: Số H, phường T, quận B, thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn : Ông Võ Văn S – Phó Giám đốc Ngân hàng N Chi nhánh huyện G Đông Gia Lai; địa chỉ: Số H, thị trấn K, huyện G, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

- Bị đơn: Ông Puih H và bà KBy; địa chỉ: Làng D, xã K, huyện G, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Lương Đức H1 và bà Mai Thị Hải Y; địa chỉ: Làng D, xã K, huyện G, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

2. Ông Ksor S và bà Kpăh U; địa chỉ: Làng D, xã K, huyện G, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Ngân hàng N (Ngân hàng) thông qua Chi nhánh huyện G Đông Gia Lai cho ông H và bà B vay tiền theo Hợp đồng tín dụng số 1852/2016/HĐTD ngày 28-4-2016 kèm theo giấy nhận nợ kiêm báo cáo đề xuất giải ngân ngày 31-8-2017, số tiền vay là 150.000.000 đồng, mục đích vay là chăm sóc cà phê và mua vật dụng gia đình, thời hạn vay là 12 tháng, lãi suất 10%/năm, lãi suất quá hạn 150% lãi suất cho vay, phân kỳ trả nợ gốc là 01 kỳ vào ngày 31-8-2018. Kỳ hạn trả lãi tiền vay là 03 tháng/lần vào ngày 28 của tháng thứ 3 (có thỏa thuận trả lãi hàng tháng).

Khi vay tiền, để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng tín dụng trên giữa Ngân hàng với ông H và bà B có giao kết Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 2140416/HĐTC ngày 28-4-2016. Tài sản thế chấp là Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với thửa đất số 41, tờ bản đồ số 21; thửa đất số 6, tờ bản đồ số 33; thửa đất số 37, tờ bản đồ số 20 tại xã K, huyện G, tỉnh Gia Lai đã được Ủy ban nhân dân huyện G, tỉnh Gia Lai cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T 673417 ngày 13-02-2001 cho ông H và bà KBy.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng, ông H và bà B không thực hiện nghĩa vụ trả tiền gốc và tiền lãi như đã cam kết nên từ ngày 01-9-2018 Ngân hàng đã chuyển toàn bộ số tiền nợ nợ gốc sang nợ quá hạn. Do ông H và bà B vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông H và bà Bphải trả cho Ngân hàng toàn bộ số tiền nợ tính đến ngày 05-4-2022 là 245.632.990 đồng, trong đó nợ gốc là 150.000.000 đồng, nợ lãi quá hạn là 80.938.356 đồng, nợ lãi trong hạn là 14.694.634 đồng và toàn bộ tiền lãi phát sinh đến thời điểm trả hết số tiền nợ.

Trường hợp ông H và bà B không trả được số nợ trên thì Ngân hàng yêu cầu Tòa án cho phát mãi tài sản thế chấp theo hợp đồng thế chấp nêu trên để thu hồi nợ; Về chi phí tố tụng, Ngân hàng yêu cầu ông H và bà B phải trả lại cho Ngân hàng toàn bộ chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 4.000.000 đồng.

Đối với việc ông Ksor S và bà Kpăh U có ý kiến khi Ngân hàng yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của ông Hạ và bà Byih thì ưu tiên xử lý tài sản là thửa đất số 37 tờ bản đồ số 41 tại xã K, huyện G, tỉnh Gia Lai trước, Ngân hàng sẽ xem xét nhưng theo quy định thì Ngân hàng phải yêu cầu xử lý toàn bộ tài sản thế chấp để bảo đảm việc thu hồi toàn bộ số tiền nợ của khách hàng.

2. Tòa án đã thực hiện việc tống đạt các văn bản tố tụng để triệu tập bị đơn là ông H và bà B đến làm việc liên quan đến vụ án nhưng ông H và bà Bcố tình trốn tránh, không có mặt theo Giấy triệu tập của Tòa án. Do vậy, hồ sơ không có lời khai của họ. Tại biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 12-01-2021, ông H chứng kiến và trình bày: Đối với thửa đất số 37, tờ bản đồ số 20 xã K, huyện G, tỉnh Gia Lai thì vợ chồng ông H có cho ông Lương Đức H1 và Mai Thị Hải Y thuê một phần có diện tích là 10m x 15m, thời hạn thuê là 04 năm kể từ năm 2018. Trên phần đất này ông H1 và bà Y đã xây 01 căn nhà tạm có diện tích 5m x 9m và mái che 5m x 4,5m; Đối với thửa đất số 41, tờ bản đồ số 21 và thửa đất số 6, tờ bản đồ số 33 xã K, huyện G, tỉnh Gia Lai thì ông H khai hoang và làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đến năm 2014, ông H và ông Ksor S thỏa thuận để ông Ksor S quản lý, sử dụng đến nay.

3. Tòa án đã thực hiện việc tống đạt các văn bản tố tụng để triệu tập người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Lương Đức H1 và Mai Thị Hải Y nhưng họ cố tình trốn tránh, không có mặt theo Giấy triệu tập của Tòa án. Do vậy, hồ sơ không có lời khai của họ. Tại biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 12-01-2021, ông Lương Đức H1 và Mai Thị Hải Y chứng kiến và trình bày: Đối với thửa đất số 37, tờ bản đồ số 20 xã K, huyện G, tỉnh Gia Lai thì vợ chồng ông H có cho ông Lương Đức H1 và Mai Thị Hải Y thuê một phần có diện tích là 10m x 15m, thời hạn thuê là 04 năm kể từ năm 2018. Trên phần đất này ông H1 và bà Y đã xây 01 căn nhà tạm có diện tích 5m x 9m và mái che 5m x 4,5m. Khi thuê đất thì ông H1 và bà Y có nhu cầu nhận chuyển nhượng nhưng sau đó mới biết thửa đất đang được thế chấp tại Ngân hàng.

4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Ksor S và bà Kpăh U trình bày: Ông Ksor S là em của bà Bnên ông H là anh rể. Năm 2016, ông Ksor S và bà Kpăh U biết ông H và bà B tự ý làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 2001 đối với thửa đất của ông Ksor S và bà Kpăh U được cha mẹ chia năm 2009 là thửa đất số 88 tờ bản đồ số 49 theo số liệu đo đạc năm 2007, còn theo số liệu đo đạc năm 2000 là thửa đất số 6 tờ bản đồ số 33 và thửa số 41 tờ bản đồ số 21, diện tích khoảng 01 ha tại làng D, xã K, huyện G, tỉnh Gia Lai. Qua hòa giải tại thôn làng ngày 01-7-2016 thì vợ chồng ông H và bà B cam kết không thế chấp thửa đất này của ông Ksor S và bà Kpăh U để vay vốn Ngân hàng. Thửa đất này bố mẹ ông S đã trồng cây điều từ năm 2002 đến năm 2009 chia lại cho ông S và đến năm 2013 vợ chồng ông đã trồng cây cao su trên đất. từ năm 2009 đến nay vợ chồng ông S là người trực tiếp quản lý, sử dụng, khai thác vườn cây cao su và vườn điều không có tranh chấp với ai. Ngoài tài liệu là biên bản hòa giải và giấy cam kết ngày 01-7-2016 thì ông Ksor S và bà Kpăh U không cung cấp tài liệu gì khác để chứng minh. Hiện nay, Ngân hàng khởi kiện ông H, bà B phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng, trường hợp ông H và bà B không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ, trong đó có cả thửa đất của ông Ksor S và bà Kpăh U đang sử dụng. Ông Ksor S và bà Kpăh U có ý kiến khi Ngân hàng yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của ông H và bà B thì ưu tiên xử lý tài sản là thửa đất số 37 tờ bản đồ số 41 trước. Trường hợp, tài sản trên không đủ để thực hiện nghĩa vụ thi hành án phải xử lý đến các tài sản ông Ksor S và bà Kpăh U đang quản lý sử dụng thì ông Ksor S và bà Kpăh U đề nghị được quyền ưu tiên nhận mua lại tài sản thế chấp để bảo đảm quyền lợi của mình.

5. Trong quá trình giải quyết vụ án, đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu thập các tài liệu, chứng cứ: Hợp đồng tín dụng số 1852/2016/HĐTD ngày 28-4-2016 kèm theo giấy nhận nợ kiêm báo cáo đề xuất giải ngân ngày 31-8-2017; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T 673417 ngày 13-02-2001; Đơn yêu cầu đăng ký thế chấp; Theo dõi phát tiền vay và kỳ hạn trả nợ; Giấy báo nợ đến hạn, Bảng kê tính lãi; Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động chi nhánh đăng ký thay đổi lần thứ 4 ngày 20-02- 2017; Quyết định bổ nhiệm lại cán bộ ngày 22-02-2019; Quyết định ủy quyền ngày 27-12-2019; Thông báo về việc ủy quyền hết hiệu lực số 506/NHNo.IGĐGL-KHKD ngày 01-7-2021; Quyết định về việc giao nhiệm vụ đối với cán bộ số 1152/QĐ- NHNo –TCTL ngày 17-6-2021; Giấy ủy quyền; Quyết định về sửa đổi, bổ sung Điều lệ ngày 18-12-2019; Quyết định ban hành Điều lệ ngày 23-4-2012; Điều lệ Ngân hàng N; Danh sách mạng lưới chi nhánh Ngân hàng N; Bản phô tô Giấy cam kết và 01 Biên bản hòa giải ghi ngày 01-7-2016; Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 12-01-2021; Công văn số 1458/UBND-TNMT ngày 01-9-2021.

6. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện G khẳng định trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, những người tiến hành tố tụng đã tuân thủ đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật. Đối với bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên toà nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt. Về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Xét nội dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn phù hợp với quy định của pháp luật, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại các Điều 26, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên được xem xét giải quyết. Hợp đồng giao kết giữa hai bên chủ thể trong đó có một bên chủ thể Ngân hàng là tổ chức tín dụng có đăng ký kinh doanh và một bên là bị đơn không có đăng ký kinh doanh nên được xác định là hợp đồng dân sự về tín dụng và pháp luật áp dụng là Bộ luật Dân sự và Luật Các tổ chức tín dụng; Trong quá trình giải quyết vụ án những người tiến hành tố tụng đã tuân thủ đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật; Đối với bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn cố tình trốn tránh, không có mặt theo giấy triệu tập, không cung cấp chứng cứ nên phải chịu trách nhiệm về việc không chứng minh được và Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt.

[2] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Hợp đồng tín dụng số 1852/2016/HĐTD ngày 28-4-2016 kèm theo giấy nhận nợ kiêm báo cáo đề xuất giải ngân ngày 31-8-2017 giữa nguyên đơn với bị đơn được giao kết hợp pháp nên có hiệu lực, các bên trong hợp đồng có nghĩa vụ thực hiện đúng và đầy đủ các điều khoản đã cam kết. Bị đơn vi phạm nghĩa vụ của bên vay theo các hợp đồng đã được giao kết nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải trả nợ là có căn cứ theo quy định tại Điều 463, Điều 466, Điều 470 của Bộ luật Dân sự. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng N, buộc ông H và bà B phải liên đới trả cho Ngân hàng toàn bộ số tiền nợ tính đến ngày 05-4-2022 là 245.632.990 đồng, trong đó nợ gốc là 150.000.000 đồng, nợ lãi quá hạn là 80.938.356 đồng, nợ lãi trong hạn là 14.694.634 đồng và toàn bộ tiền lãi phát sinh đến thời điểm trả hết số tiền nợ.

Về yêu cầu xử lý tài sản thế chấp, Hội đồng xét xử thấy rằng giữa Ngân hàng với ông H và bà Bcó giao kết Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 2140416/HĐTC ngày 28-4-2016. Tài sản thế chấp là Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với các thửa đất số 41, tờ bản đồ số 21; thửa đất số 6, tờ bản đồ số 33; thửa đất số 37, tờ bản đồ số 20 xã K, huyện G, tỉnh Gia Lai đã được Ủy ban nhân dân huyện G, tỉnh Gia Lai cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T 673417 ngày 13-02-2001 cho ông H và bà B. Hợp đồng nói trên có chứng thực của Ủy ban nhân dân xã K và đăng ký thế chấp theo quy định. Qua kết quả xem xét và thẩm định tại chỗ ngày 12-01-2021 và ý kiến của đương sự thấy rằng, đối với thửa đất số 37, tờ bản đồ số 20 xã K, huyện G, tỉnh Gia Lai thì vợ chồng ông H có cho ông Lương Đức H1 và Mai Thị Hải Y thuê một phần có diện tích là 10m x 15m, thời hạn thuê là 04 năm kể từ năm 2018. Trên phần đất này ông H1 và bà Y đã xây 01 căn nhà tạm có diện tích 5m x 9m và mái che 5m x 4,5m. Khi thuê đất thì ông H1 biết thửa đất đang được thế chấp tại Ngân hàng nhưng vẫn đồng ý thuê mà không được sự đồng ý của bên nhận thế chấp là Ngân hàng. Quá trình giải quyết vụ án phía ông H1 và bà Y cũng không có ý kiến hay tranh chấp gì với vợ chồng ông H, hợp đồng thuê cũng sắp hết thời hạn nên nếu ông H1 và bà Y sau này nếu có tranh chấp liên quan đến việc thực hiện hợp đồng thì có quyền khởi kiện và được xem xét bằng vụ việc dân sự khác; Đối với thửa đất số 6 tờ bản đồ số 33 và thửa số 41 tờ bản đồ số 21 xã K, huyện G, tỉnh Gia Lai thì ông Ksor S và bà Kpăh U cho rằng họ được cha mẹ chia năm 2009 và bố mẹ ông S đã trồng cây điều từ năm 2002 đến năm 2009 chia lại cho ông S và đến năm 2013 vợ chồng ông đã trồng cây cao su trên đất, là người trực tiếp quản lý, sử dụng, khai thác vườn cây cao su và vườn điều từ đó đến nay. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử thấy rằng các thửa đất này đã được ông H và bà B kê khai và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ ngày 13-02-2001, quá trình sử dụng đất trong thời gian dài không có đơn thư tranh chấp tại Ủy ban nhân dân xã và khi nhận thế chấp thì Ngân hàng cũng không thấy đất có tranh chấp. Do vậy, ngay cả trong trường hợp ông Ksor S và bà Kpăh U tranh chấp về quyền sử dụng đất với ông H và bà B liên quan đến các thửa đất nói trên, thì Ngân hàng là người nhận thế chấp ngay tình nên hợp đồng thế chấp đã được giao kết vẫn có hiệu lực và Tòa án không giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất trong vụ án này. Nếu phía ông Ksor S và bà Kpăh U có tranh chấp với ông H và bà B về việc yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản hoặc tranh chấp khác liên quan đến việc xử lý tài sản thế chấp thì có quyền khởi kiện để được xem xét, giải quyết bằng vụ việc dân sự khác; Đối với đề nghị của ông Ksor S và bà Kpăh U có ý kiến khi Ngân hàng yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của ông H và bà B thì xử lý tài sản là thửa đất số 37 tờ bản đồ số 41 trước, đề nghị này không thuộc thẩm quyền xem xét của Tòa án mà Ngân hàng có quyền xem xét, xử lý cho phù hợp, bảo đảm quyền lợi của người liên quan. Ông Ksor S và bà Kpăh U là người đang trực tiếp sử dụng đất nên được quyền ưu mua lại tài sản thế chấp để bảo đảm quyền lợi của mình theo tinh thần của Án lệ số 11/2017/AL ngày 14-12-2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Từ các phân tích trên, căn cứ vào Điều 299 của Bộ luật Dân sự, hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của Ngân hàng.

[3] Về chi phí xem xét và thẩm định tại chỗ: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên căn cứ vào Điều 157, 158 của Bộ luật Tố tụng Dân sự buộc ông H và bà B phải liên đới hoàn trả lại cho Ngân hàng N toàn bộ số tiền tạm ứng chi phí xem xét thẩm định tại chỗ là 4.000.000 đồng.

[4] Về án phí: Toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, bị đơn là người có nghĩa vụ trả nợ nên phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng Điều 144, Điều 147, Điều 157, Điều 158, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Áp dụng Điều 288, Điều 299, Điều 463, Điều 466, Điều 468, Điều 470 của Bộ luật Dân sự; Điều 91, Điều 95 của Luật Các tổ chức tín dụng.

- Áp dụng Án lệ số 11/2017/AL ngày 14-12-2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

- Áp dụng Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án và Danh mục án phí, lệ phí tòa án Ban hành kèm theo Nghị quyết.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng N.

2. Buộc ông H và bà B phải liên đới trả cho Ngân hàng N tổng số tiền nợ tính đến ngày 05-4-2022 là 245.632.990 đồng (hai trăm bốn mươi lăm triệu sáu trăm ba mươi hai nghìn chín trăm chín mươi nghìn đồng), trong đó nợ gốc là 150.000.000 đồng (một trăm năm mươi triệu đồng), nợ lãi quá hạn là 80.938.356 đồng (tám mươi triệu chín trăm ba mươi tám nghìn ba trăm năm mươi sáu đồng), nợ lãi trong hạn là 14.694.634 đồng (mười bốn triệu sáu trăm chín mươi bốn nghìn sáu trăm ba mươi bốn đồng) và toàn bộ tiền lãi phát sinh đến thời điểm trả hết số tiền nợ.

3. Trong trường hợp ông H và bà B không trả đủ số tiền nợ nêu trên cho Ngân hàng N thì Ngân hàng N có quyền yêu cầu xử lý tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 2140416/HĐTC ngày 28-4- 2016. Tài sản thế chấp là gồm Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 41, tờ bản đồ số 21; thửa đất số 6, tờ bản đồ số 33; thửa đất số 37, tờ bản đồ số 20 tại xã K, huyện G, tỉnh Gia Lai đã được Ủy ban nhân dân huyện G, tỉnh Gia Lai cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số T 673417 ngày 13-02-2001 cho ông H và bà B.

Trường hợp Ngân hàng N yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự xử lý tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 2140416/HĐTC ngày 28-4-2016 thì ông Ksor S và bà Kpăh U được ưu tiên nhận chuyển nhượng Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa số 6 tờ bản đồ số 33 và thửa số 41 tờ bản đồ số 21 đã được Ủy ban nhân dân huyện G, tỉnh Gia Lai cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T 673417 ngày 13-02-2001 cho ông H và bà B.

4. Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

5. Về chi phí tố tụng: Buộc ông H và bà B phải liên đới hoàn trả lại cho Ngân hàng N toàn bộ số tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, cho đến khi thi hành án xong, người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

6. Về án phí: Buộc ông H và bà B phải liên đới chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 12.281.650 đồng (mười hai triệu hai trăm tám mươi mốt nghìn sáu trăm năm mươi đồng). Hoàn trả lại cho Ngân hàng N số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 5.185.274 đồng (năm triệu một trăm tám mươi lăm nghìn hai trăm bảy mươi bốn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng phí, lệ phí tòa án số 0011681 ngày 21-10-2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Gia Lai.

7. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

8. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt tại phiên toà thì có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 18/2022/DS-ST

Số hiệu:18/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ia Grai - Gia Lai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 05/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;