TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI CHÂU - THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 17/2024/DS-ST NGÀY 12/04/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 12 tháng 4 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 341/2023/TLST-DS ngày 10 tháng 11 năm 2023 về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2024/QĐXXST-DS ngày 23 tháng 02 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 23/2024/QĐST-DS ngày 22 tháng 3 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP S. (Ghi tắt là Ngân hàng) Trụ sở chính: Số 266 – 268 đường N, phường V, quận 3, thành phố H; Đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Đức Thạch D – Chức vụ: Tổng Giám đốc.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Đức Hoàng N. Chức vụ: Chuyên viên quản lý nợ. (Theo Giấy ủy quyền số 45/2023/UQ-PGDCC ngày 11/10/2023 của bà Huỳnh Nguyễn Vân T – Trưởng phòng giao dịch. Địa chỉ: Số 225 đường O, phường H, quận H, thành phố Đ, ông N có mặt)
- Bị đơn: Ông Trần Đ, sinh năm: 1972. Địa chỉ: đường H, tổ M, phường H, quận H, thành phố Đ; (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 11 tháng 10 năm 2023, Ngân hàng TMCP S trình bày:
Ngày 15/08/2016, ông Trần Đ có ký với Ngân hàng TMCP S Hợp đồng sử dụng Thẻ tín dụng (bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng - các tài liệu này được gọi chung là Hợp đồng).
Căn cứ thu nhập của ông Đ, Ngân hàng đã cấp hạn mức tín dụng 10.000.000 đồng với mục đích: tiêu dùng cá nhân.
Sau khi được cấp tín dụng bà P đã thực hiện giao dịch với tổng số tiền là 9.900.000 đồng.
Trong quá trình sử dụng thẻ đến ngày 30/9/2016, ông Đ đã thanh toán cho Ngân hàng với tổng số tiền 570.000 đồng. (Thứ tự thanh toán căn cứ theo Điều 20 của Bản Điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng).
Sau thời gian sử dụng, ông Đ vi phạm nghĩa vụ thanh toán (Điều 2 của Bản Điều khoản và Điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng), Ngày 28/02/2022 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ của ông Đ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu (Dư nợ) sang nợ quá hạn (Điều 23 của Bản Điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng).
Tính đến ngày 07/12/2022, ông Đ còn nợ Ngân hàng tổng số tiền 41.997.280 đồng, gồm: Dư nợ: 11.451.204 đồng, Lãi quá hạn: 20.364.050 đồng và Lãi trong hạn là 10.182.025 đồng.
Lãi suất trong hạn : 2.50%/tháng Lãi suất quá hạn : 3.75%/tháng (2.50%x150%) Mặc dù Ngân hàng đã yêu cầu ông Đ có trách nhiệm thanh toán, tuy nhiên ông Đ vẫn chưa thanh toán cho Ngân hàng, vi phạm các Điều khoản và Điều kiện đã qui định tại Hợp đồng.
Do đó, để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của Ngân hàng, Ngân hàng TMCP S yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề sau đây:
Buộc ông Trần Đ phải trả ngay cho Ngân hàng số tiền nợ tạm tính đến ngày 07/12/2022 là 41.997.280 đồng, gồm: Dư nợ: 11.451.204 đồng, Lãi quá hạn: 20.364.050 đồng và Lãi trong hạn là 10.182.025 đồng.
Buộc ông Trần Đ phải thanh toán khoản lãi phát sinh từ ngày 07/12/2022 cho đến khi trả hết dư nợ thẻ theo lãi suất quy định tại Hợp đồng đã ký.
Trong quá trình giải quyết vụ án, tại Bản tự khai ngày 31/12/2023, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Nguyễn Đức Hoàng N trình bày:
Do phát sinh lỗi dữ liệu cũ trên hệ thống chưa được đồng bộ kịp thời nên xảy ra sự nhầm lẫn về thời gian và các khoản nợ tính đến ngày 11/10/2023 nên Ngân hàng xin sửa đổi nội dung khởi kiện như sau:
Dư nợ tính đến ngày 11/10/2023, Ông Đ còn nợ ngân hàng các khoản sau:
Dư nợ: 11.451.204 đồng Lãi quá hạn: 34.983.416 đồng Tổng cộng: 46.434.620 đồng Do vậy, Ngân hàng yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Buộc ông Trần Đ phải trả ngay cho Ngân hàng số tiền nợ tạm tính đến ngày 11/10/2023 là 46.434.620 đồng, gồm: Dư nợ: 11.451.204 đồng, Lãi quá hạn: 34.983.416 đồng.
- Buộc ông Trần Đ phải thanh toán khoản lãi phát sinh từ ngày 12/10/2023 cho đến khi trả hết dư nợ thẻ theo lãi suất quy định tại Hợp đồng đã ký.
Ông Trần Đ vắng mặt nên Tòa án không lấy được lời khai và hòa giải về nội dung có tranh chấp trong vụ án.
Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Ngân hàng yêu cầu Tòa án buộc ông Trần Đ phải trả ngay cho Ngân hàng tổng số tiền nợ tạm tính đến ngày 12/4/2024 theo Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng ngày 15/8/2016 là 49.039.768 đồng, gồm: Dư nợ: 11.451.204 đồng, Lãi quá hạn: 37.602.878 đồng; Buộc ông Trần Đ phải thanh toán khoản lãi phát sinh từ ngày 13/4/2024 cho đến khi trả hết dư nợ thẻ theo lãi suất quy định tại Hợp đồng đã ký.
Bị đơn – ông Trần Đ vắng mặt lần thứ hai không có lý do.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, các đương sự và quan điểm về việc giải quyết vụ án:
Tòa án cấp sơ thẩm đã thụ lý và Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn được đảm bảo kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án.
Về nội dung, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn – Ngân hàng TMCP S, buộc bị đơn – ông Trần Đ phải thanh toán toàn bộ số tiền nợ theo Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng mà hai bên đã ký kết;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe các đương sự trình bày và tranh luận công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a, khoản 1, Điều 35; điểm a, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Tại phiên tòa, bị đơn là ông Trần Đ vắng mặt lần thứ hai không có lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt bị đơn.
Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn – Ngân hàng TMCP S có sửa đổi một phần yêu cầu khởi kiện về cách tính lãi suất và tổng số tiền nợ liên quan đến Hợp đồng thẻ tín dụng giữa Ngân hàng và ông Trần Đ. Xét thấy, việc sửa đổi cách tính lãi suất phù hợp với thỏa thuận của các bên trong Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng được ký kết ngày 15/8/2016 giữa Ngân hàng TMCP S và ông Trần Đ, không vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[2] Về nội dung:
Xét tính hợp pháp của các Hợp đồng sử dụng Thẻ tín dụng ngày 15/8/2016 (bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng - các tài liệu này được gọi chung là Hợp đồng) và yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì thấy:
Hợp đồng được ký kết giữa nguyên đơn và bị đơn có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của pháp luật, do hai bên tự nguyện giao kết nên các hợp đồng này là hợp pháp. Do vậy, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên và các bên phải có trách nhiệm thực hiện đúng và đầy đủ các thỏa thuận đã cam kết trong các hợp đồng.
Quá trình thực hiện hợp đồng, theo thỏa thuận tại Hợp đồng đã ký, Ngân hàng đã cấp Thẻ tín dụng hạn mức 10.000.000 đồng cho ông Trần Đ.
Về phía ông Trần Đ, sau khi được cấp thẻ tín dụng ông Trần Đ đã thực hiện giao dịch với tổng số tiền là 9.900.000 đồng.
Trong quá trình sử dụng thẻ đến ngày 30/9/2016, ông Đ đã thanh toán cho Ngân hàng với tổng số tiền 570.000 đồng. Trong đó: ( Trong đó: 300.000 đồng là Phí thường niên của thẻ, 270.000 đồng là số tiền thanh toán tối thiểu để tránh bị nhảy nhóm nợ theo quy định của Ngân hàng).
Từ ngày 01/10/2016 đến nay, ông Đ không thanh toán nợ gốc và lãi đầy đủ, đúng thời hạn cho Ngân hàng theo thỏa thuận trong hợp đồng mặc dù Ngân hàng đã nhiều lần nhắc nhở. Đến ngày 31/01/2017, Ngân hàng TMCP S đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ tín dụng của ông Trần Đ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn. Như vậy, ông Trần Đ đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ hàng tháng quy định tại Điều 2 của Bản Điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng.
Tại phiên tòa, Ngân hàng giữ nguyên yêu cầu khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bị đơn – ông Trần Đ phải trả ngay cho Ngân hàng tổng số tiền nợ tạm tính đến ngày 12/4/2024 theo Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng ngày 15/8/2016 là 49.039.768 đồng, gồm: Dư nợ: 11.451.204 đồng, Lãi quá hạn: 37.602.878 đồng; Buộc ông Trần Đ phải thanh toán khoản lãi phát sinh từ ngày 13/4/2024 cho đến khi trả hết dư nợ thẻ theo lãi suất quy định tại Hợp đồng đã ký là có cơ sở. Ông Trần Đ vắng mặt không có lý do trong suốt quá trình giải quyết vụ án, không có ý kiến trình bày về nội dung tranh chấp để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình nên Tòa án không có cơ sở để xem xét. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ theo quy định của pháp luật tại các Điều 91, 95, 98 Luật các tổ chức tín dụng và Điều 463, 466 Bộ luật Dân sự và Án lệ số 08/2016/AL chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Từ những phân tích và đánh giá trên, Hội đồng xét xử nhận thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng tại phiên tòa là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận.
[3] Về án phí: Vì chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên bị đơn ông Trần Đ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Hoàn trả tiền tạm ứng án phí cho Ngân hàng TMCP S.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a, khoản 1, Điều 35; điểm a, khoản 1 Điều 39; khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
- Căn cứ các Điều 117, 463, và Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015;
- Căn cứ Điều 91, Điều 95 và Điều 98 Luật các tổ chức tín dụng;
- Căn cứ Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
- Áp dụng Án lệ số 08/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số: 698/QĐ-CA ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao;
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” của Ngân hàng TMCP S đối với ông Trần Đ.
Xử : 1. Buộc ông Trần Đ phải trả ngay cho Ngân hàng tổng số tiền nợ tạm tính đến ngày 12/4/2024 theo Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng ngày 15/8/2016 là 49.039.768 đồng, gồm: Dư nợ: 11.451.204 đồng, Lãi quá hạn: 37.602.878 đồng;
Buộc ông Trần Đ phải thanh toán khoản lãi phát sinh từ ngày 13/4/2024 cho đến khi trả hết dư nợ thẻ tín dụng theo lãi suất quy định tại Hợp đồng đã ký
2. Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm ông Trần Đ phải chịu là 2.451.988 đồng.
Ngân hàng TMCP S không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho Ngân hàng TMCP S số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm 1.049.932 đồng đã nộp theo biên lai thu số 02591 ngày 09 tháng 11 năm 2023 của Chi cục thi hành án dân sự quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
3. Về quyền kháng cáo: nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án.
Bản án 17/2024/DS-ST về tranh chấp hợp đồng tín dụng
Số hiệu: | 17/2024/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hải Châu - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 12/04/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về