Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 153/2020/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 153/2020/DS-ST NGÀY 19/08/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 19 tháng 8 năm 2020 tại Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 107/2020/TLST-DS ngày 05 tháng 5 năm 2020 về việc “Tranh chấp Hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 87/2020/QĐXXST-DS ngày 07 tháng 7 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 77/2020/QĐST-DS ngày 28/7/2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần T; Địa chỉ trụ sở: Số A đường B, Phường C, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Bà Nguyễn Bích Thanh T, sinh năm 1980; Địa chỉ: Số E đường R, Phường T, quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh - Là người đại diện theo ủy quyền (Giấy ủy quyền số 158/2020/UQ-TTT ngày 06/3/2020) - Có mặt.

2. Bị đơn: Ông Lê Minh T, sinh năm 1981; Địa chỉ: Số U Đường I, Khu phố O, phường P, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn tại đơn khởi kiện ngày 06/3/2020, trong quá trình giải quyết và xét xử vụ án có bà Nguyễn Bích Thanh T là người đại diện theo ủy quyền trình bày:

Ngày 08/10/2011, ông Lê Minh T (Sau đây viết tắt là bị đơn) làm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng đề nghị Ngân hàng TMCP T cấp thẻ tín dụng và ông T đồng ý với bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng. Ngân hàng TMCP T (Sau đây viết tắt là Nguyên đơn) đã phê duyệt hạn mức tín dụng với số tiền 15.000.000 đồng.

Sau khi được cấp thẻ tín dụng, bị đơn đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 17.080.000 đồng. Trong quá trình sử dụng thẻ, bị đơn đã thanh toán cho nguyên đơn tổng số tiền là 15.122.000 đồng. Qua nhiều lần nguyên đơn làm việc và nhắc nhở nhưng bị đơn vẫn không có thiện chí trả nợ.

Tính đến ngày 19/8/2020, bị đơn còn nợ nguyên đơn số tiền là 38.397.402 đồng theo giấy đề nghị vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng, trong đó:

+ Nợ gốc: 10.575.342 đồng;

+ Nợ lãi quá hạn: 27.822.060 đồng;

Do bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả cho nguyên đơn tổng số tiền nợ của hợp đồng nêu trên tính đến ngày 19/8/2020 là 38.397.402 đồng, ngoài ra kể từ ngày 19/8/2020 bị đơn còn phải thanh toán cho nguyên đơn số tiền lãi phát sinh theo mức lãi suất thỏa thuận tại Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của nguyên đơn cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ, yêu cầu trả một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Nguyên đơn xác định chỉ cho cá nhân bị đơn vay nên chỉ khởi kiện yêu cầu cá nhân bị đơn trả nợ, không yêu cầu đối với ai khác.

Về phía bị đơn ông Lê Minh T, trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh đã nhiều lần triệu tập bị đơn đến trụ sở Tòa án để giải quyết vụ kiện theo đúng quy định pháp luật nhưng bị đơn không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì, vắng mặt không có lý do, không có văn bản, ý kiến phản hồi mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng để tham gia giải quyết vụ án, tham gia phiên tòa.

Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân Quận 7:

- Về tố tụng: Thẩm phán thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và quyết định đưa vụ án ra xét xử đều bảo đảm đúng quy định về thời hạn, nội dung, thẩm quyền của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng trình tự, thủ tục đối với phiên tòa dân sự. Nguyên đơn, người đại diện của nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật. Bị đơn chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng mà bị đơn đã ký, bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của nguyên đơn thì thỏa thuận giữa nguyên đơn và bị đơn là tự nguyện, phù hợp quy định của pháp luật. Do bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả lại số tiền đã vay theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng, bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của nguyên đơn - Đây là “Tranh chấp về hợp đồng tín dụng” là loại tranh chấp được quy định tại Khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh theo Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2] Tại đơn khởi kiện nguyên đơn cung cấp địa chỉ cư trú hiện tại của bị đơn ông Lê Minh T là số U Đường I, Khu phố O, phường P, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh. Theo địa chỉ được bị đơn ghi trong giao dịch Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng thể hiện bị đơn cư trú tại địa chỉ số U Đường I, Khu phố O, phường P, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh.

Theo kết quả trả lời của Công an phường Tân Kiểng, Quận 7 tại Quyết định yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ số 95/2020/QĐ-CCTLCC ngày 11/5/2020 của Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh thì đương sự Lê Minh T, sinh năm 1981 thường trú tại địa chỉ nêu trên, hiện nay không còn cư trú tại địa phương, bỏ đi đâu không rõ.

Căn cứ vào Điều 10 của bản Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của nguyên đơn thì việc thay đổi thông tin chủ thẻ phải thông báo ngay cho đơn vị phát hành thẻ.

Vì vậy trong đơn khởi kiện nguyên đơn đã ghi đúng và đầy đủ địa chỉ nơi cư trú của bị đơn. Nay bị đơn vắng mặt tại địa phương nhưng không thông báo cho nguyên đơn biết về nơi cư trú mới theo quy định tại Khoản 3 Điều 40, Điểm b Khoản 2 Điều 277 Bộ luật Dân sự 2015 thì được coi là cố tình giấu địa chỉ. Căn cứ Điểm e Khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.

[1.3] Đối với bị đơn là trường hợp được coi là cố tình giấu địa chỉ, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, căn cứ vào Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về chứng cứ và nghĩa vụ chứng minh: Tại Khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định “Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đố i những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh”. Quá trình tố tụng, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng bị đơn không có ý kiến phản hồi và không phản bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không cung cấp tài liệu chứng cứ gì, vắng mặt không có lý do và không có ý kiến phản hồi. Căn cứ Khoản 4 Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì bị đơn đã tự tước bỏ quyền được chứng minh của mình qua việc không đến Tòa án tham gia tố tụng, phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định tại Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án giải quyết vụ việc trên theo những chứng cứ có trong hồ sơ.

[3] Về yêu cầu khởi kiện của đương sự:

Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải trả số tiền vốn và lãi tính đến ngày 19/8/2020 theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng với số tiền là 38.397.402 đồng, trong đó nợ gốc là 10.575.342 đồng, nợ lãi quá hạn là 27.822.060 đồng; Yêu cầu trả ngay một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra kể từ ngày 20/8/2020, bị đơn còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất thỏa thuận trong theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng đã ký và bản Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng cho đến khi thanh toán hết nợ. Hội đồng xét xử xét thấy:

[3.1] Căn cứ Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng do bị đơn yêu cầu và được Ngân hàng Thương mại Cổ phần T phê duyệt, tóm tắt sao kê thẻ tín dụng và các chứng cứ khác trong hồ sơ có cơ sở xác định bị đơn có đề nghị vay, đã được nguyên đơn chấp thuận cho vay và giải ngân số tiền 15.000.000 đồng. Quá trình thực hiện hợp đồng bị đơn đã thanh toán được số tiền 15.122.000 đồng. Tính đến ngày 19/8/2020, bị đơn còn nợ nguyên đơn số tiền là 38.397.402 đồng, trong đó nợ gốc là 10.575.342 đồng, nợ lãi quá hạn là 27.822.060 đồng.

[3.2] Căn cứ theo các điều khoản ký kết trong Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 08/10/2011 thì bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Căn cứ Khoản 1 Điều 466 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về nghĩa vụ trả nợ của bên vay thì “bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn”. Đến nay bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Do đó, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả nợ tính đến ngày 19/8/2020 số tiền là: 38.397.402 đồng, trong đó nợ gốc là 10.575.342 đồng, nợ lãi quá hạn là 27.822.060 đồng là phù hợp với các điều khoản trong theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng đã ký kết, phù hợp Điều 22, 23 của bản Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng đính kèm theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và phù hợp với quy định tại Khoản 2 Điều 91, Khoản 2 Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 nên có cơ sở và được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Kể từ sau ngày xét xử sơ thẩm bị đơn vẫn phải trả lãi theo mức lãi suất đã thỏa thuận tại Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng, bản Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng cho đến khi trả hết nợ.

[3.3] Về thời hạn trả nợ: Nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả số tiền còn nợ một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật. Xét thấy, bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên với yêu cầu này của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận.

[4] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên được chấp nhận nên phía bị đơn phải chịu tiền án phí theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là 1.920.000 đồng. Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả lại nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí đã đóng theo quy định của pháp luật.

[5] Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[6] Kiểm sát viên đề nghị chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là phù hợp với nhận định trên của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 3 Điều 26; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Khoản 1 Điều 39; Khoản 4 Điều 68; Khoản 4 Điều 91; Điều 92; Điều 147; Điều 227; Khoản 1 Điều 228; Điều 266; Điều 273 và Điều 357 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 463 và Điều 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

Căn cứ Khoản 2 Điều 91 và Khoản 2 Điều 95 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010;

Căn cứ Luật phí, lệ phí và Khoản 1 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;

Căn cứ vào Điều 26 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung 2014;

Xử:

1. Về hình thức: Xử vắng mặt bị đơn ông Lê Minh T.

2. Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần T.

2.1. Buộc ông Lê Minh T phải thanh toán cho Ngân hàng Thương mại cổ phần T tổng số tiền nợ tính đến ngày 19/8/2020 là 38.397.402 (Ba mươi tám triệu ba trăm chín mươi bảy ngàn bốn trăm lẻ hai) đồng, trong đó nợ gốc là 10.575.342 (Mười triệu năm trăm bảy mươi lăm ngàn ba trăm bốn mươi hai) đồng, nợ lãi quá hạn là 27.822.060 (Hai mươi bảy triệu tám trăm hai mươi hai ngàn không trăm sáu mươi) đồng, trả một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực thi hành.

2.2 Kể từ ngày 20/8/2020, ông Lê Minh T còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 08/10/2011 và bản Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng cho đến khi thi hành án xong.

2.3. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Ông Lê Minh T phải chịu 1.920.000 (Một triệu chín trăm hai mươi ngàn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, nộp tại Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Ngân hàng Thương mại Cổ phần T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả lại Ngân hàng Thương mại Cổ phần T số tiền tạm ứng án phí đã đóng là 909.000 (Chín trăm lẻ chín ngàn) đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2018/0032377 ngày 05/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Quyền yêu cầu thi hành án, thời hiệu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án:

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 1, Điều 2 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

4. Quyền kháng cáo:

Nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần T được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn ông Lê Minh T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

259
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 153/2020/DS-ST

Số hiệu:153/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 7 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 19/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;