Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 129/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 7 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 129/2023/DS-ST NGÀY 09/06/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 09 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 381/2020/TLST-DS ngày 22 tháng 10 năm 2020 về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2023/QĐXXST-DS ngày 13 tháng 4 năm 2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 88/2023/QĐST-DS ngày 11 tháng 5 năm 2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP S Địa chỉ: Lầu 8, số 266-268 đường N, phường V, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Lã Ngọc M, sinh năm 1970 (Giấy ủy quyền số 881/2023/UQ-TGĐ ngày 13/4/2023 của Công ty TNHH MTV Quản lý nợ và Khai thác tài sản Ngân hàng S).

Địa chỉ liên lạc: Lầu 5, số 278 đường N, phường V, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Ông Vũ Văn H, sinh năm 1971 Địa chỉ: Số 208 chung cư An H 1, tổ 3, khu phố 1, phường T, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

(ông Lã Ngọc M có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; ông Vũ Văn H vắng mặt tại phiên tòa) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 08/6/2020 của Ngân hàng TMCP S và quá trình giải quyết vụ án ông Lã Ngọc M là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Ngày 07/7/2010, ông Vũ Văn H có ký với Ngân hàng TMCP S (sau đây viết tắt là Ngân hàng T) Hợp đồng sử dụng Thẻ tín dụng, số thẻ: 472074 – X (bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và Bản điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng – các tài liệu này được gọi chung là Hợp đồng). Căn cứ thu nhập của ông Vũ Văn H, Ngân hàng T đã đồng ý cấp thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng là 15.000.000 đồng, với mục đích tiêu dùng cá nhân. Sau khi được cấp thẻ tín dụng, ông H đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 32.692.200 đồng. Trong quá trình sử dụng thẻ, từ ngày kích hoạt thẻ ông H đã thanh toán cho Ngân hàng T tính đến ngày 15/9/2011 số tiền là 24.525.400 đồng (thứ tự thanh toán căn cứ theo Điều 20 của Bản điều khoản và Điều kiện phát hành, sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng, thanh toán sẽ được áp dụng theo thứ tự: Các khoản phí hoặc lãi của kỳ trước;

giao dịch rút tiền mặt của kỳ trước; các khoản phí hoặc lãi trong kỳ; giao dích rút tiền mặt trong kỳ). Qua nhiều lần làm việc, nhắc nhở nhưng ông H vẫn không có thiện chí trả nợ, nên ngày 16/01/2012, Ngân hàng T đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu là 17.868.632 đồng sang nợ quá hạn (theo thỏa thuận tại Điều 23 của Bản điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng). Lãi quá hạn = 150% x lãi trong hạn = 2.15 X 150% = 3.225%/tháng.

Do ông Vũ Văn H đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán (theo thỏa thuận tại Điều 2 của Bản Điều khoản và Điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng) nêu trên, nên Ngân hàng T yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Vũ Văn H phải thanh toán cho Ngân hàng T các khoản nợ tính đến ngày 09/6/2023, số tiền là 97.835.699 đồng (trong đó nợ gốc 17.868.632 đồng; lãi quá hạn 79.967.067 đồng). Trả một lần ngay sau khi bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật và ông Vũ Văn H còn phải thanh toán khoản lãi phát sinh từ ngày 10/6/2023 cho đến khi trả dứt nợ vay cho Ngân hàng T theo lãi suất quy định tại hợp đồng.

- Đối với bị đơn ông Vũ Văn H: Tòa án đã tống đạt hợp lệ cho ông Vũ Văn H thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập đương sự đến Tòa án để trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nhưng ông H không có mặt theo giấy triệu tập, cũng không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tòa án cũng đã tống đạt hợp lệ cho ông Vũ Văn H thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải (lần 2), nhưng ông H vẫn không có mặt, nên không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa hôm nay:

- Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Lã Ngọc M có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

- Bị đơn ông Vũ Văn H đã được Toà án tống đạt, niêm yết hợp lệ giấy triệu tập tham gia phiên tòa (lần 2) nhưng vắng mặt không lý do.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa là đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền.

Việc xác định tư cách tham gia tố tụng; xác minh, thu thập chứng cứ, giao nhận chứng cứ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và Thư ký đã thực hiện đúng các quy định chung về phiên tòa sơ thẩm, thủ tục bắt đầu phiên tòa, đảm bảo việc tranh tụng tại phiên tòa theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn thực hiện đúng quy định tại Điều 70, Điều 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Bị đơn không thực hiện đúng các quy định tại Điều 70, Điều 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, vì vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án mặc dù đã được triệu tập hợp lệ.

- Về việc giải quyết vụ án:

Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn yêu cầu ông Vũ Văn H phải thanh toán toàn bộ số tiền nợ tính đến ngày 09/6/2023 là 97.835.699 đồng (trong đó nợ gốc 17.868.632 đồng; lãi quá hạn 79.967.067 đồng).

Về án phí: Ông Vũ Văn H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được xem xét tại phiên tòa và ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Ngân hàng T khởi kiện yêu cầu ông Vũ Văn H phải trả các khoản nợ phát sinh từ Đề nghị vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng, đây là vụ án tranh chấp về hợp đồng vay tài sản quy định tại điều 463 Bộ luật dân sự 2015. Bị đơn có địa chỉ cư trú tại Quận 7, theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Về sự có mặt của đương sự: Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Lã Ngọc M có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Đối với bị đơn là Vũ Văn H, tại phiên tòa ngày 11/5/2023 và tại phiên tòa hôm nay ông Vũ Văn H vắng mặt không có lý do, mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập tham gia phiên tòa. Căn cứ khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Về áp dụng pháp luật: Xét Hợp đồng sử dụng Thẻ tín dụng, số thẻ:

472074 – X (bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và Bản điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng – các tài liệu này được gọi chung là Hợp đồng) ký ngày 07/7/2010 giữa Ngân hàng T và ông Vũ Văn H có hiệu lực kể từ ngày ký và đang thực hiện. Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử áp dụng quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 để giải quyết vụ án;

[4] Về áp dụng pháp luật nội dung: Xét yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng T về việc yêu cầu ông Vũ Văn H thanh toán một lần số tiền là 97.835.699 đồng (trong đó nợ gốc 17.868.632 đồng; lãi quá hạn 79.967.067 đồng). Trả một lần ngay sau khi bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật, Hội đồng xét xử xét thấy:

Căn cứ Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và Bản Điều khoản và Điều kiện phát hành, sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng T ngày 07/7/2010, Ngân hàng đã cấp thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng là 15.000.000 đồng, với mục đích tiêu dùng cá nhân. Sau khi được cấp thẻ tín dụng, ông Vũ Văn H đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 32.692.200 đồng và ông H đã thanh toán cho Ngân hàng T được số tiền là 24.525.400 đồng. Căn cứ Bảng tóm tắt sao kê khách hàng Vũ Văn H, số thẻ: 472074-X của Ngân hàng T xác định tính đến ngày 09/6/2023 ông Vũ Văn H còn nợ số tiền là 97.835.699 đồng (trong đó nợ gốc 17.868.632 đồng; lãi quá hạn 79.967.067 đồng). Như vậy, có cơ sở xác định ông Vũ Văn H có sử dụng thẻ tín dụng để thực hiện các giao dịch và đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng như đã nêu trên, nên yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng T là có cơ sở để chấp nhận.

[5] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng T được chấp nhận, nên ông ông Vũ Văn H phải chịu án phí dân sự số tiền là 4.891.785 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 228, khoản 1 Điều 273 và Điều 280 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào các Điều 463, Điều 466, Điều 468 và Điều 688 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 91, Điểu 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010;

- Căn cứ Điều 26 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014;

- Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng TMCP S.

Buộc ông Vũ Văn H phải trả cho Ngân hàng TMCP S tổng số tiền tạm tính đến ngày 09/6/2023 là 97.835.699 (chín mươi bảy triệu tám trăm ba mươi lăm ngàn sáu trăm chín mươi chín) đồng, trong đó tiền nợ gốc 17.868.632 đồng và tiền lãi quá hạn 79.967.067 đồng. Trả một lần ngay sau khi bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật. Các bên đương sự thi hành bản án tại Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Kể từ ngày 10/6/2023, cho đến khi thi hành án xong, ông Vũ Văn H còn phải tiếp tục chịu tiền lãi phát sinh của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất các bên thỏa thuận tại Hợp đồng sử dụng Thẻ tín dụng – số thẻ: 472074- X (Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và Bản Điều khoản và Điều kiện phát hành, sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng TMCP S ngày 07/7/2010).

2. Về án phí: Ông Vũ Văn H chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền là 4.891.785 (bốn triệu tám trăm chín mươi mốt ngàn bảy trăm tám mươi lăm) đồng.

Hoàn trả lại cho Ngân hàng TMCP S số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.943.000 (một triệu chín trăm bốn mươi ba ngàn) đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0041691 ngày 22/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo bản án sơ thẩm là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Viện kiểm sát nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh có quyền kháng nghị bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 129/2023/DS-ST

Số hiệu:129/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 7 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 09/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;