Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 125/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 5 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 125/2022/DS-ST NGÀY 29/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 29 tháng 8 năm 2022 tại Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 02/2022/TLST-DS ngày 10 tháng 01 năm 2022 về việc “Tranh chấp Hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2022/QĐXXST-DS ngày 07 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 91/2022/QĐST-DS ngày 29 tháng 7 năm 2022:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần S; Địa chỉ trụ sở: Số 266-268 (Lầu 8) đường NK, Phường H, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Đoàn Nguyễn Thanh T, sinh năm 1973; Địa chỉ liên hệ: Số 238-240-242 đường N, Phường V, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh - Là người đại diện theo ủy quyền (Giấy ủy quyền số 291/GUQ-CNGV ngày 18/11/2021) – Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Bá T, sinh năm 1986; Địa chỉ: Số 14H/3A đường ĐV, Phường M, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh – Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn tại đơn khởi kiện ngày 18/11/2021, trong quá trình giải quyết và xét xử vụ án có ông Đoàn Nguyễn Thanh T là người đại diện theo ủy quyền trình bày:

Ngày 06/01/2018, ông Nguyễn Bá T (Sau đây viết tắt là bị đơn) ký với Ngân hàng Thương mại Cổ phần S (Sau đây viết tắt là Nguyên đơn) Hợp đồng sử dụng Thẻ tín dụng (bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và Bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng cá nhân của Ngân hàng). Căn cứ thu nhập của bị đơn, nguyên đơn đã đồng ý cấp thẻ tín dụng quốc tế Visa Platinum Cashback số 436438-9685 và phê duyệt hạn mức tín dụng với số tiền 100.000.000 đồng cho mục đích tiêu dùng cá nhân.

Sau khi được cấp thẻ tín dụng, bị đơn đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 2.607.798.799 đồng. Trong quá trình sử dụng thẻ, bị đơn đã thanh toán cho nguyên đơn tổng số tiền là 2.521.100.000 đồng. Từ ngày 15/8/2020, nguyên đơn nhiều lần làm việc, nhắc nhở nhưng bị đơn vẫn không có thiện chí trả nợ.

Do bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán, nguyên đơn đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ của bị đơn vào ngày 29/7/2020 và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn. Tính đến ngày 29/8/2022, bị đơn còn nợ nguyên đơn số tiền là 211.951.019 đồng, trong đó:

+ Nợ gốc: 111.977.507 đồng;

+ Nợ lãi quá hạn: 99.973.512 đồng;

Nay nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả cho nguyên đơn tổng số tiền nợ của hợp đồng nêu trên tính đến ngày 29/8/2022 là 211.951.019 đồng, ngoài ra kể từ ngày 30/8/2022 bị đơn còn phải thanh toán cho nguyên đơn số tiền lãi phát sinh theo mức lãi suất thỏa thuận tại Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và Bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng cá nhân của nguyên đơn cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ, yêu cầu trả một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Nguyên đơn xác định chỉ cho cá nhân bị đơn vay nên chỉ khởi kiện yêu cầu cá nhân bị đơn trả nợ, không yêu cầu đối với ai khác.

Về phía bị đơn ông Nguyễn Bá T, trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh đã nhiều lần triệu tập bị đơn đến trụ sở Tòa án để giải quyết vụ kiện theo đúng quy định pháp luật nhưng bị đơn không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì, vắng mặt không có lý do, không có văn bản, ý kiến phản hồi mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng để tham gia giải quyết vụ án, tham gia phiên tòa.

Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân Quận 5:

- Về tố tụng: Thẩm phán thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và quyết định đưa vụ án ra xét xử đều bảo đảm đúng quy định về thời hạn, nội dung, thẩm quyền của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng trình tự, thủ tục đối với phiên tòa dân sự. Nguyên đơn, người đại diện của nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật. Bị đơn chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng mà bị đơn đã ký, Bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng cá nhân của nguyên đơn thì thỏa thuận giữa nguyên đơn và bị đơn là tự nguyện, phù hợp quy định của pháp luật. Do bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả lại số tiền đã vay theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng, Bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng cá nhân của nguyên đơn - Đây là “Tranh chấp về hợp đồng tín dụng” là loại tranh chấp được quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh theo khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2] Đối với bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai tham gia phiên toà nhưng vắng mặt không có lý do, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn theo quy định tại Điều 227, Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về chứng cứ và nghĩa vụ chứng minh: Tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định “Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh”. Quá trình tố tụng, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng bị đơn không có ý kiến phản hồi và không phản bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không cung cấp tài liệu chứng cứ gì, vắng mặt không có lý do và không có ý kiến phản hồi. Căn cứ khoản 4 Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì bị đơn đã tự tước bỏ quyền được chứng minh của mình qua việc không đến Tòa án tham gia tố tụng, phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định tại Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án giải quyết vụ việc trên theo những chứng cứ có trong hồ sơ.

[3] Về yêu cầu khởi kiện của đương sự:

Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải trả số tiền vốn và lãi tính đến ngày 29/8/2022 theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng với số tiền là 211.951.019 đồng, trong đó nợ gốc là 111.977.507 đồng, nợ lãi quá hạn là 99.973.512 đồng; Yêu cầu trả ngay một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra kể từ ngày 30/8/2022, bị đơn còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất thỏa thuận trong theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng đã ký và Bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng cá nhân cho đến khi thanh toán hết nợ. Hội đồng xét xử xét thấy:

[3.1] Căn cứ Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng do bị đơn yêu cầu và được Ngân hàng Thương mại Cổ phần S phê duyệt, tóm tắt sao kê thẻ tín dụng và các chứng cứ khác trong hồ sơ có cơ sở xác định bị đơn có đề nghị cấp thẻ tín dụng, đã được nguyên đơn chấp thuận phát hành và cho bị đơn sử dụng thẻ với hạn mức tín dụng là 100.000.000 đồng. Sau khi được cấp thẻ, bị đơn đã thực hiện các giao dịch và đã thanh toán được số tiền 2.521.100.000 đồng. Tính đến ngày 29/8/2022, bị đơn còn nợ nguyên đơn số tiền là 211.951.019 đồng, trong đó nợ gốc là 111.977.507 đồng, nợ lãi quá hạn là 99.973.512 đồng.

[3.2] Căn cứ theo các điều khoản ký kết trong Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 06/01/2018 thì bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Căn cứ khoản 1 Điều 466 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về nghĩa vụ trả nợ của bên vay thì “bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn”. Đến nay bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Do đó, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả nợ tính đến ngày 29/8/2022 số tiền là: 211.951.019 đồng (trong đó nợ gốc là 111.977.507 đồng, nợ lãi quá hạn là 99.973.512 đồng) là phù hợp với các điều khoản trong theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng đã ký kết, phù hợp Điều 22, 23 của Bản Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng cá nhân đính kèm theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 91, khoản 2 Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 nên có cơ sở và được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Kể từ sau ngày xét xử sơ thẩm bị đơn vẫn phải trả lãi theo mức lãi suất đã thỏa thuận tại Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng, Bản Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng cá nhân của Ngân hàng Thương mại Cổ phần S cho đến khi trả hết nợ.

[3.3] Về thời hạn trả nợ: Nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả số tiền còn nợ một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật. Xét thấy, bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên với yêu cầu này của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận.

[4] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên được chấp nhận nên phía bị đơn phải chịu tiền án phí theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 là 10.597.551 đồng. Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả lại nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí đã đóng theo quy định của pháp luật.

[5] Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[6] Kiểm sát viên đề nghị chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là phù hợp với nhận định trên của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 68; khoản 4 Điều 91; Điều 92; Điều 147; Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 266; Điều 271; Điều 273; Điều 280 và Điều 357 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 463, Điều 466 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

Căn cứ khoản 2 Điều 91 và khoản 2 Điều 95 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010;

Căn cứ Luật phí, lệ phí năm 2015 và khoản 1 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;

Căn cứ vào Điều 26 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung 2014;

Xử:

1. Về hình thức: Xử vắng mặt nguyên đơn Ngân hàng Thương mại Cổ phần S - và bị đơn ông Nguyễn Bá T.

2. Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần S.

2.1. Buộc ông Nguyễn Bá T phải thanh toán cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần S tổng số tiền nợ tính đến ngày 29/8/2022 là 211.951.019 (Hai trăm mười một triệu chín trăm năm mươi mốt nghìn không trăm mười chín) đồng, trong đó nợ gốc là 111.977.507 (Một trăm mười một triệu chín trăm bảy mươi bảy nghìn năm trăm lẻ bảy) đồng, nợ lãi quá hạn là 99.973.512 (Chín mươi chín triệu chín trăm bảy mươi ba nghìn năm trăm mười hai) đồng, trả một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực thi hành.

2.2 Kể từ ngày 30/8/2022, ông Nguyễn Bá T còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 06/01/2018 và Bản Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng cá nhân cho đến khi thi hành án xong.

2.3. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Ông Nguyễn Bá T phải chịu 10.597.551 (Mười triệu năm trăm chín mươi bảy nghìn năm trăm năm mươi mốt) đồng án phí dân sự sơ thẩm, nộp tại Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Ngân hàng Thương mại Cổ phần S không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và được hoàn trả số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 4.341.368 (Bốn triệu ba trăm bốn mươi mốt nghìn ba trăm sáu mươi tám) đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2021/0009673 ngày 10/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Quyền yêu cầu thi hành án, thời hiệu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án: Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 1, Điều 2 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

4. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn Ngân hàng Thương mại Cổ phần S và bị đơn ông Nguyễn Bá T có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

108
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 125/2022/DS-ST

Số hiệu:125/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 5 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;