Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 12/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 12/2023/DS-ST NGÀY 21/02/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 21 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa – tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 514/2021/TLST-DS, ngày 08/6/2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2023/QĐXXST-DS ngày 06 tháng 01 năm 2023, Quyết định hoãn phiên tòa số 579/2023/QĐST-DS, ngày 03/02/2023 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần xăng dầu A.

Địa chỉ trụ sở chính: Tầng 16, 23, 24, tòa nhà M, số 229 T, phường Ngã Tư Sở, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.

Đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Quang Đ – Chủ tịch Hội đồng quản trị Đại diện theo ủy quyền: Chị Nguyễn Thị Minh T, sinh năm: 1988.

Địa chỉ liên lạc: Tầng lửng Tòa nhà V, số 4, N, phường Đa Kao, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. (Giấy ủy quyền số 27/2022/UQ-GĐCNĐN ngày 12/8/2022)

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn C, sinh năm: 1964.

Trần Thị Ngọc O, sinh năm: 1981.

Cùng địa chỉ: Số A, khu phố B, phường Tam Hiệp, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

(Chị Tr có đơn vắng mặt, ông C, bà O vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 04/5/2021, bản tự khai người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Minh Tr trình bày:

Ngày 02/3/2015, ông Nguyễn Văn C và bà Trần Thị Ngọc O có ký hợp đồng tín dụng số 467.1379/2015/HĐTD-CN/PGBannk ĐNI và thỏa thuận sửa đổi bổ sung hợp đồng tín dụng số 01.1379/PLHĐTD ngày 04/3/2015 với Ngân hàng thương mại cổ phần xăng dầu A để vay số tiền 600.000.000đ, mục đích vay là để bổ sung vốn mua xe ô tô tải Huyndai HD72 phục vụ kinh doanh. Thời hạn vay là 60 tháng kể từ ngày rút vốn đầu tiên; lãi suất là 11%/năm tại thời điểm giải ngân lần đầu và chịu sự điều chỉnh theo quy định của Ngân hàng; nợ gốc được trả vào ngày 10 hàng tháng; nợ lãi được trả định kỳ vào ngày 10 hàng tháng theo dư nợ thực tế.

Ngân hàng thương mại cổ phần xăng dầu A đã giải ngân cho ông Nguyễn Văn C, bà Trần Thị Ngọc O một lần số tiền 600.000.000đ theo khế ước nhận nợ số 1379.01/2015/KƯNN-CN/PGBank ĐNi ngày 03/3/2015.

Để đảm bảo cho khoản vay trên, ngày 02/3/2015, ông C và bà O đã ký kết hợp đồng thế chấp xe ô tô số 1379/HĐTC/PGB; phụ lục hợp đồng số 01.1379/PLHĐTC ngày 04/3/2015. Tài sản thế chấp là xe ô tô tải, nhãn hiệu Huyndai, biển kiểm soát 60C-A, số máy D4DBEJ579714, số khung KMFGA17BPFC273687, đứng tên trên giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô tải là ông Nguyễn Văn C. Tài sản trên được đăng ký giao dịch bảo đảm tại Trung tâm đăng ký giao dịch, tài sản tại Đà Nẵng, ngày 02/3/2015.

Quá trình thực hiện hợp đồng vay ông C và bà O đã thanh toán cho Ngân hàng thương mại cổ phần xăng dầu Petrolimex được tổng số tiền là 302.708.100đ. Trong đó, nợ gốc là 190.000.000đ, nợ lãi là 112.708.100đ. Ông C, bà O đã nhiều lần vi phạm nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi đối với nguyên đơn. Mặc dù, Ngân hàng thương mại cổ phần xăng dầu A đã nhiều lần đôn đốc, nhắc nhở ông C và bà O trả nợ nhưng ông C và bà O không hợp tác.

Nay Ngân hàng thương mại cổ phần xăng dầu A khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên buộc ông Nguyễn Văn C và bà Trần Thị Ngọc O phải trả toàn bộ nợ gốc và lãi còn lại cho Ngân hàng thương mại cổ phần xăng dầu A tính đến ngày 21/02/2023 tổng số tiền là 837.896.965đ. Trong đó, nợ gốc là 410.000.000đ, lãi trong hạn là 84.633.943đ, lãi quá hạn là 343.263.022đ. Trường hợp, ông C bà O không trả được nợ thì đề nghị Tòa án tuyên phát mãi tài sản đã thế chấp để đảm bảo việc thu hồi nợ của Ngân hàng thương mại cổ phần xăng dầu A.

Đối với ông Nguyễn Văn C, bà Trần Thị Ngọc O đã được Tòa án thực hiện thủ tục thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng quy định tại Điều 180 Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, ông C và bà O vẫn vắng mặt nên không có lời trình bày:

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án được thực hiện đúng quy định.

Về việc tuân theo pháp luật của các đương sự: Nguyên đơn, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn chấp hành theo đúng quy định tại Điều 70, 71, 86 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Bị đơn không chấp hành theo đúng Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần xăng dầu A đối với ông Nguyễn Văn C, bà Trần Thị Ngọc O. Buộc ông C và bà O có trách nhiệm phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần xăng dầu A tổng số tiền 837.896.965đ. Trong đó, nợ gốc là 410.000.000đ, lãi trong hạn là 84.633.943đ, lãi quá hạn là 343.263.022đ. Trường hợp, ông C và bà O không trả được nợ thì đề nghị phát mãi tài sản đã thế chấp để đảm bảo việc thu hồi nợ của Ngân hàng thương mại cổ phần xăng dầu A. Về án phí: Ông C, bà O phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật, tư cách đương sự: Ngân hàng thương mại cổ phần xăng dầu A khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Văn C và bà Trần Thị Ngọc O phải thanh toán cho Ngân hàng thương mại cổ phần xăng dầu A tổng số tiền 837.896.965đ. Trong đó, nợ gốc là 410.000.000đ, lãi trong hạn là 84.633.943đ, lãi quá hạn là 343.263.022đ, nên căn cứ vào Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 xác định quan hệ pháp luật tranh chấp của vụ án là “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”. Căn cứ vào Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 xác định Ngân hàng thương mại cổ phần xăng dầu A là nguyên đơn, ông Nguyễn Văn T, bà Trần Thị Ngọc O là bị đơn trong vụ án.

[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Ông Nguyễn Văn T, bà Trần Thị Ngọc O đã từng cư trú tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai căn cứ vào Điều 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 xác định vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa.

[3] Về thủ tục tố tụng khác: Chị Nguyễn Thị Minh Tr là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn ông C, bà O đã được Tòa án triệu tập hợp lệ theo quy định tại khoản 1 Điều 180 Bộ luật tố tụng dân sự nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Căn cứ Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[4] Đối với ông Nguyễn Văn T, bà Trần Thị Ngọc O: Theo biên bản xác minh ngày 30/3/2022 tại Công an phường Tam Hiệp xác định ông T, bà O không có đăng ký thường trú hay tạm trú tại địa chỉ số 144/44, khu phố 5, phường Tam Hiệp, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Trước đây, ông T và bà O có sinh sống tại địa phương nhưng đã bỏ đi không còn sinh sống tại địa phương từ khoảng năm 2018 cho đến nay. Hiện nay, ông T, bà O làm gì ở đâu địa phương không nắm rõ. Ngày 07/7/2022, Tòa án đã ban hành thông báo về việc yêu cầu nguyên đơn cung cấp địa chỉ hiện nay ông T bà O đang sinh sống và làm việc. Trường hợp, không cung cấp được thì đề nghị nguyên đơn thực hiện việc thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú đối với ông T và bà O. Tuy nhiên, chị T là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn không cung cấp được địa chỉ hiện nay của ông T, bà O và khẳng định nguyên đơn không thực hiện thông báo tìm kiếm đối ông T bà O theo yêu cầu của Tòa án. Ngày 14/7/2022, Tòa án đã lập biên bản làm việc để giải thích cho đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn biết về quy định tại khoản 1 Điều 180 Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thống nhất việc Tòa án sẽ thực hiện thủ tục cấp, tống đạt cho ông T và bà O bằng hình thức thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng.

[4] Về nội dung: Ngân hàng thương mại cổ phần xăng dầu A yêu cầu ông C, bà O phải trả tổng số tiền còn nợ là 837.896.965đ. Trong đó, nợ gốc là 410.000.000đ, lãi trong hạn là 84.633.943đ, lãi quá hạn là 343.263.022đ. Ngân hàng thương mại cổ phần xăng dầu A đã xuất trình đầy đủ chứng cứ như các hợp đồng tín dụng, giấy đề nghị vay vốn và giải ngân, hợp đồng thế chấp tài sản, các biên bản làm việc thể hiện ông T, bà O đã nhiều lần vi phạm thời hạn trả nợ…Xét thấy yêu cầu của Ngân hàng thương mại cổ phần xăng dầu Petrolimex là có căn cứ chấp nhận, vì các chứng cứ Ngân hàng thương mại cổ phần xăng dầu Petrolimex cung cấp là hợp lệ và thể hiện ông T, bà O vi phạm hợp đồng tín dụng đã ký kết. Do đó, buộc ông T, bà O phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần xăng dầu Petrolimex tổng số tiền còn nợ là 837.896.965đ. Trong đó, nợ gốc là 410.000.000đ, lãi trong hạn là 84.633.943đ, lãi quá hạn là 343.263.022đ tính đến ngày 21/02/2023.

[5] Tài sản đảm bảo thi hành án gồm: Xe ô tô tải, nhãn hiệu Huyndai, biển kiểm soát 60C-A, số máy D4DBEJ579714, số khung KMFGA17BPFC273687, đứng tên trên giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô tải là ông Nguyễn Văn T theo hợp đồng thế chấp xe ô tô số 1379/HĐTC/PGB và phụ lục hợp đồng số 01.1379/PLHĐTC ngày 04/3/2015. Tài sản trên được đăng ký giao dịch bảo đảm tại Trung tâm đăng ký giao dịch, tài sản tại Đà Nẵng, ngày 02/3/2015.

[6] Về án phí: Do mục đích vay tiền của ông Nguyễn Văn T, bà Trần Thị Ngọc O là để mua xe ô tô tải phục vụ kinh doanh nên Hội đồng xét xử xác định đây là tranh chấp về kinh doanh thương mại nên ông C, bà O phải chịu án kinh doanh thương mại sự sơ thẩm là 37.136.909. Ngân hàng thương mại cổ phần xăng dầu A được nhận lại số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp là 18.214.000đ.

[7] Ý kiến đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa tham gia phiên tòa phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sồ sơ vụ án và nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 203, Điều 220, Điều 228, Điều 266, 269 Bộ Luật tố tụng dân sự; Áp dụng vào Điều 471, 474 Bộ luật dân sự năm 2005; khoản 2 Điều 91 Luật tổ chức tín dụng; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần xăng dầu A về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” đối với ông Nguyễn Văn C, bà Trần Thị Ngọc O.

Buộc ông Nguyễn Văn T, bà Trần Thị Ngọc O phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần xăng dầu A tổng số tiền là 837.896.965đ. Trong đó, nợ gốc là 410.000.000đ, lãi trong hạn là 84.633.943đ, lãi quá hạn là 343.263.022đ.

Tài sản đảm bảo thi hành án gồm: Xe ô tô tải, nhãn hiệu Huyndai, biển kiểm soát 60C-A, số máy D4DBEJ579714, số khung KMFGA17BPFC273687, đứng tên trên giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô tải là ông Nguyễn Văn T theo hợp đồng thế chấp xe ô tô số 1379/HĐTC/PGB và phụ lục hợp đồng số 01.1379/PLHĐTC ngày 04/3/2015. Tài sản trên được đăng ký giao dịch bảo đảm tại Trung tâm đăng ký giao dịch, tài sản tại Đà Nẵng, ngày 02/3/2015.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

Về án phí: Ông Nguyễn Văn T, bà Trần Thị Ngọc O phải chịu án kinh doanh thương mại sự sơ thẩm là 37.136.909. Ngân hàng thương mại cổ phần xăng dầu A được nhận lại số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp là 18.214.000đ theo biên lai thu số 0001583 ngày 07/6/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

45
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 12/2023/DS-ST

Số hiệu:12/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 21/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;