Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 09/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯ KUIN, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 09/2023/DS-ST NGÀY 27/03/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 27/3/2023, tại Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 147/2022/TLST-DS ngày 21 tháng 11 năm 2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2023/QĐXXST-DS ngày 20 tháng 02 năm 2023, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Ngân hàng N; Địa chỉ: Số 02 đường L, phường Th, Quận B, Thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Nguyễn Đức H, chức vụ: Phó Giám đốc phụ trách Ngân hàng N – PGD Tr, chi nhánh huyện K; Địa chỉ: Thôn 2, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk (văn bản ủy quyền ngày 05/10/2022), có mặt.

* Bị đơn: Ông Y S Êban, sinh năm 1982;

Địa chỉ: Buôn C, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, có đơn xin xét xử vắng mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà H M Ktla, sinh năm 1984; Địa chỉ: Buôn C, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

2. Chị H’ X Ktla, sinh năm 2003; Địa chỉ: Buôn C, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện nộp ngày 09/11/2022, trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Nguyến Đức H trình bày:

Ngày 16/8/2019, Ngân hàng N (nguyên đơn) với ông Y S Êban (bị đơn) có ký Hợp đồng tín dụng số 5229-LAV-201902172 ngày 16/8/2019 số tiền vay là 100.000.000 đồng, lãi suất cho vay 12%/năm, thời hạn vay 36 tháng, phân làm 3 kỳ trả nợ như sau: Ngày 16/8/2020 trả nợ gốc 30.000.000 đồng, ngày 16/8/2021 trả nợ gốc 30.000.000 đồng, ngày 16/8/2022 trả nợ gốc 40.000.000 đồng, mục đích cho vay để chăm sóc cây cà phê, hồ tiêu và chăn nuôi bò.

Để đảm bảo cho khoản vay trên, nguyên đơn có cầm giữ 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CM 595810 do Ủy ban nhân dân (UBND) huyện K cấp ngày 12/8/2019 cho ông Y S Êban, địa chỉ thửa đất tại buôn C, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, hai bên không tiến hành ký kết Hợp đồng thế chấp và đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định. Trong quá trình thực hiện Hợp đồng tín dụng thì đến ngày 16/8/2020 nguyên đơn đã chuyển toàn bộ số tiền nợ trên sang nợ quá hạn, do bị đơn vi phạm trả gốc và lãi, tính đến ngày 27/3/2023, bị đơn còn nợ nguyên đơn tổng số tiền là 151.751.562 đồng (trong đó: nợ gốc là 100.000.000 đồng, nợ lãi là 51.751.562 đồng).

Nay nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết, buộc bị đơn phải trả toàn bộ số tiền vay gốc và lãi còn nợ theo Hợp đồng tín dụng số 5229-LAV- 201902172 ngày 16/8/2019 với tổng số tiền là 151.751.562 đồng (trong đó: nợ gốc là 100.000.000 đồng, nợ lãi là 51.751.562 đồng) và tiền lãi phát sinh tính từ ngày 28/3/2023 cho đến khi trả xong nợ cho Ngân hàng. Trường hợp bị đơn không thanh toán được nợ cho nguyên đơn, đề nghị Toà án tuyên xử lý toàn bộ tài sản theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CM 595810 để thu hồi nợ vay cho nguyên đơn theo quy định của pháp luật.

Ngày 08/3/2023 và tại phiên tòa nguyên đơn có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với việc đề nghị Toà án tuyên xử lý toàn bộ tài sản theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CM 595810 để thu hồi nợ. Ngoài việc rút một phần yêu cầu trên thì đại diện nguyên đơn vẫn giữ nguyên các yêu cầu khởi kiện khác và không thay đổi gì.

* Tại biên bản lấy lời khai ngày 29/11/2022 ông Y S Êban trình bày:

Bị đơn có vay của nguyên đơn với số tiền là 100.000.000 đồng theo Hợp đồng tín dụng số 5229-LAV-201902172 ngày 16/8/2019. Mục đích vay để đầu tư, chăm sóc và kinh doanh sản xuất cho gia đình. Để đảm bảo khoản vay trên, thì bị đơn có giao cho nguyên đơn 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CM 595810 do UBND huyện K cấp ngày 12/8/2019 cho ông Y S Êban, thửa đất số 6276, tờ bản đồ số 31, diện tích 1218,6m2; địa chỉ thửa đất tại buôn C, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Năm 2019 bị đơn có đầu tư trồng và chăm sóc cây cà phê, cây hồ tiêu nhưng đến năm 2020 thì vườn cà phê và hồ tiêu đã chết hết nên kinh tế gặp khó khăn và không có khả năng trả nợ cho Ngân hàng.

Nay nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả tổng tiền vay theo Hợp đồng tín dụng số 5229-LAV-201902172 ngày 16/8/2019 thì bị đơn đồng ý trả nợ. Về việc Ngân hàng yêu cầu xử lý toàn bộ tài sản theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CM 595810 thì bị đơn đồng ý bàn giao tài sản cho nguyên đơn để xử lý thu hồi nợ, vì hiện tại bị đơn đã già yếu và không có khả năng lao động. Nếu như số tài sản phát mãi không đủ để thu hồi nợ, thì bị đơn mong muốn được thương lượng phía Ngân hàng để giảm bớt số tiền lãi.

* Tại bản tự khai ngày 29/11/2022 Chị H’ X Ktla trình bày:

Chị H’ X Ktla là con gái của ông Y S Êban và bà H M Ktla. Chị H’ X biết việc bố mẹ chị có vay của Ngân hàng số tiền vay là 100.000.000 đồng, mục đích cho vay để chăm sóc cây cà phê, hồ tiêu và chăn nuôi bò. Năm 2019 gia đình có đầu tư cà phê, điều nhưng đến năm 2020 thì đã chết hết, nên gia đình có kinh tế khó khăn và không có khả năng trả nợ cho Ngân hàng.

Nay nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bố mẹ chị trả nợ cho Ngân hàng thì chị không có ý kiến gì và đồng ý trả nợ. Về việc Ngân hàng yêu cầu xử lý toàn bộ tài sản theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CM 595810 thì chị H’ X đồng ý bàn giao tài sản cho nguyên đơn.

* Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà H M Ktla: Tòa án đã tống đạt giấy triệu hợp lệ nhiều lần cho bà H M nhưng bà H M không đến Tòa án làm việc và không tham gia tố tụng nên Tòa án không thể lấy lời khai của bà H Min.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Kuin tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào phòng nghị án Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 72, 73 Bộ luật Tố tụng dân sự. Áp dụng Điều 463, Điều 466, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015; Luật các tổ chức tín dụng đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc bị đơn ông Y S Êban phải trả cho Ngân hàng tổng số tiền vay theo Hợp đồng tín dụng số 5229-LAV-201902172 ngày 16/8/2019 và tiền lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng trên cho đến khi trả xong nợ. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu Toà án tuyên xử lý toàn bộ tài sản theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CM 595810 của bị đơn để thu hồi nợ trong trường hợp bị đơn không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ cho nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bị đơn ông Y S Êban phải trả số tiền gốc và tiền lãi phát sinh theo Hợp đồng tín dụng số 5229-LAV-201902172 ngày 16/8/2019 nên đây là quan hệ tranh chấp về hợp đồng tín dụng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Do bị đơn cư trú tại buôn C, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin. Bị đơn là ông Y S Êban có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà H M Ktla đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Tòa án nhân dân huyện K căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 để thụ lý và xét xử vắng mặt đối với bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là đúng với quy định của pháp luật.

[2] Về nợ gốc: Căn cứ vào Hợp đồng tín dụng số 5229-LAV-201902172 ngày 16/8/2019, thì bị đơn ông Y S Êban vay của nguyên đơn số tiền gốc là 100.000.000 đồng, mục đích vay tiền là để chăm sóc cây cà phê, hồ tiêu và chăn nuôi bò, hạn trả nợ cuối cùng vào ngày 16/8/2022, lãi suất cho vay 12%/năm, lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn. Nội dung các bên thỏa thuận trong hợp đồng phù hợp với các quy định của pháp luật tại các Điều 91 và 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 được sửa đổi bổ sung năm 2017. Quá trình thực hiện hợp đồng bị đơn đã không thực hiện đúng thời hạn và nghĩa vụ trả nợ cho nguyên đơn theo Hợp đồng tín dụng đã ký kết. Dư nợ tính đến ngày 27/3/2023 là 151.751.562 đồng (trong đó: nợ gốc là 100.000.000 đồng, nợ lãi là 51.751.562 đồng). Việc bị đơn vi phạm nghĩa vụ trả nợ cho nguyên đơn theo nội dung hợp đồng tín dụng đã xâm phạm đến quyền lợi của nguyên đơn. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về nợ gốc.

[3] Về nợ lãi: Căn cứ Điều 91 và Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 được sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định: “Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật”. Căn cứ tại Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010 hướng dẫn Tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận, Hội đồng xét xử nhận thấy việc thỏa thuận lãi suất giữa các bên là phù hợp với quy định của pháp luật. Theo đó tính đến ngày 27/3/2023 bị đơn phải trả cho nguyên đơn 51.751.562 đồng tiền lãi là có cơ sở nên cần chấp nhận. Đồng thời, bị đơn còn phải tiếp tục trả tiền lãi phát sinh từ ngày 28/3/2023 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ dư nợ theo hợp đồng tín dụng đã ký kết.

[4] Về biện pháp bảo đảm: Ngày 08/3/2023 và tại phiên tòa, nguyên đơn có yêu cầu rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu Toà án giải quyết tuyên xử lý toàn bộ đối với tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất của bị đơn tại thửa đất số 6276, tờ bản đồ số 31, diện tích 1218,6m2 tọa lạc tại buôn C, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CM 595810 để thu hồi nợ trong trường hợp nguyên đơn không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng. Xét thấy, việc rút yêu cầu của nguyên đơn là tự nguyện và phù hợp với quy định nên Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 127 và khoản 2 Điều 244 chấp nhận và đình chỉ việc xét xử đối với yêu cầu trên là phù hợp.

[5] Về chi phí tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn yêu cầu Tòa án tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ đối với tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất của bị đơn tại thửa đất số 6276, tờ bản đồ số 31, diện tích 1218,6m2 tọa lạc tại buôn C, xã E, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CM 595810 để làm căn cứ xử tài sản thế chấp và đã nộp 2.000.000 đồng tiền tạm ứng chi phí tố tụng. Sau khi đã được Tòa án tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ thì nguyên đơn mới rút yêu cầu khởi kiện về yêu cầu xử lý tài sản thế chấp nên nguyên đơn phải chịu toàn bộ chi phí tố tụng theo quy định tại Điều 157 Bộ luật Tố tụng dân sự và được khấu trừ vào số tiền tạm ứng đã nộp và đã chi phí xong.

[6] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án là phù hợp với quy định của pháp luật nên chấp nhận.

[7] Về án phí: Do toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm với mức 151.751.562 đồng x 5% = 7.588.000 đồng theo quy định tại Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Nguyên đơn không phải chịu án phí và được trả lại tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; các Điều 144, 147, 157, 227, 228, 235, 244, 266 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ các Điều 463, 466 Bộ luật dân sự; Điều 91, 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010 hướng dẫn Tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng N.

- Buộc ông Y S Êban có nghĩa trả cho Ngân hàng N số tiền vay tính đến ngày 27/3/2023 gồm: nợ gốc 100.000.000 đồng và nợ lãi 51.751.562 đồng, tổng cộng 151.751.562 đồng (Một trăm năm mươi mốt triệu, bảy trăm năm mươi mối nghìn, năm trăm sáu mươi hai đồng).

Kể từ ngày 28/3/2023 cho đến khi thi hành án xong bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng số 5229-LAV-201902172 ngày 16/8/2019.

- Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng N về việc yêu cầu Tòa án tuyên xử lý toàn bộ tài sản thế chấp là quyền sử dụng thửa đất số 6276, tờ bản đồ số 31, diện tích 1218,6m2, tọa lạc tại buôn C, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CM 595810 được UBND huyện Cư Kuin cấp ngày 12/8/2019 cho ông Y S Êban.

- Về chi phí tố tụng: Ngân hàng N phải chịu 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ đã nộp và đã chi phí xong.

- Về án phí: Ông Y S Êban phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 7.588.000 đồng (Bảy triệu năm trăm tám mươi tám nghìn đồng). Ngân hàng N không phải chịu án phí và được trả lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 3.135.471 đồng (Ba triệu, một trăm ba mươi lăm nghìn, bốn trăm bảy mươi mốt đồng) theo biên lai số AA/2021/0017423 ngày 14/11/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai.

Trường hợp bản án được thi hành tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

64
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 09/2023/DS-ST

Số hiệu:09/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cư Kuin - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 27/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;