Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 07/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯ KUIN, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 07/2022/DS-ST NGÀY 01/04/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 01/4/2022, tại Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 104/2021/TLST-DS ngày 09 tháng 11 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2022/QĐXXST-DS ngày 28/02/2022, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP P; Địa chỉ: Đường N, phường B, Quận M, Thành phố H.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Xuân Đ – Chức vụ: Chuyên viên QHKH- PGD C.

Địa chỉ: Thôn H, xã E, huyện C, tỉnh Đ (Theo giấy ủy quyền ngày 10/12/2021), có mặt.

* Bị đơn: Ông Y K Bdap, sinh năm 1993 và bà H B Ayũn, sinh năm 1991; Cùng địa chỉ: Buôn K, xã E, huyện C, tỉnh Đ, bà H B Ayũn có mặt, ông Y K Bdap vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện nộp ngày 08/11/2021, trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm – Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Nguyễn Xuân Đ trình bày:

Ngày 09/09/2016, Ngân hàng Thương mại cổ phần P (sau đây gọi tắt là Ngân hàng) với vợ chồng ông Y K Bdap và bà H B Ayũn có ký Hợp đồng tín dụng số 0481/16/HĐTDHM-CN/131 và giải ngân theo khế ước nhận nợ số 0481/16/HĐTDHM-CN/131/KUNN03 ngày 18/5/2018 số tiền là 150.000.000 đồng; thời hạn vay 12 tháng; mục đích cho vay để bù đắp vốn đầu tư chăm sóc cà phê, tiêu, chăn nuôi, lãi suất cho vay 11%/năm, lãi suất cố định 12 tháng đầu tiên, sau đó lãi suất được thay đổi định kỳ 03 tháng/lần, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn, kể từ thời điểm chuyển nợ quá hạn.

Để đảm bảo cho các khoản vay trên, vợ chồng ông Y K Bdap, bà H B Ayũn ký kết với Ngân hàng Hợp đồng thế chấp Quyền sử dụng đất số 0380/16/HĐBĐ- 131 ngày 09/9/2016 thế chấp tài sản là:

Thửa đất số 7868, tờ bản đồ số 29, diện tích 9110m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B 850846 do UBND huyện K cấp ngày 14/7/1993 mang tên bà H B Ayũn, tặng cho bà H B Ayũn ngày 29/6/2016, địa chỉ thửa đất tại Buôn K, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk Trong quá trình thực hiện hợp đồng tính dụng, đến ngày 15/8/2019, thì Ngân hàng chuyển sang nợ quá hạn, do vi phạm trả gốc và lãi; tính đến ngày 01/4/2022, vợ chồng ông Y K Bdap, bà H B Ayũn còn nợ Ngân hàng là 239.976.480 đồng, (trong đó: nợ gốc là 150.000.000 đồng, nợ lãi là 89.976.480 đồng).

Nay Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết, buộc vợ chồng ông Y K Bdap, bà H B Ayũn phải trả tiền vay gốc và lãi còn nợ theo: Hợp đồng tín dụng số 0481/16/HĐTDHM-CN/131 ngày 09/9/2016 và khế ước nhận nợ số 0481/16/HĐTDHM-CN/131/KUNN03 ngày 18/5/2018 là 239.976.480 đồng và tiền lãi phát sinh tính từ ngày 02/4/2022 cho đến khi trả xong nợ.

Trường hợp vợ chồng ông Y K Bdap, bà H B Ayũn không thanh toán được nợ cho Ngân hàng, đề nghị Toà án xử lý tài sản theo hợp đồng thế chấp để thu hồi nợ vay cho Ngân hàng theo quy định của pháp luật.

* Đối với bị đơn ông Y K Bdap bà H B Ayũn:

Tòa án đã tống đạt giấy triệu hợp lệ nhiều lần nhưng vợ chồng ông Y K Bdap, bà H B Ayũn không đến Tòa án làm việc và cố tình lẩn tránh không tham gia tố tụng nên Tòa án không thể lấy lời khai của vợ chồng ông Y K Bdap, bà H B Ayũn.

Tại phiên tòa, bà H B Ayũn có mặt và đồng ý với yêu cầu khởi kiện của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn. Bà H B Ayũn đề nghị Ngân hàng tạo điều kiện cho gia đình bà H B Ayũn trả nợ dần và đồng ý bàn giao các tài sản trên cho Ngân hàng xử lý theo quy định của pháp luật nếu bà H B Ayũn không thanh toán hết khoản vay trên.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Kuin tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Quan hệ pháp luật giải quyết của vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin, xác định đúng quan hệ pháp luật, đúng tư cách người tham gia tố tụng, thủ tục giải quyết và việc thu thập chứng cứ theo đúng trình tự quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của các đương sự: Trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Bị đơn vắng mặt không thực hiện nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, Thư ký, Hội đồng xét xử (HĐXX) đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng từ khi khai mạc phiên tòa đến khi kết thúc phần tranh luận.

- Về nội dung: Xét thấy yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần P là có căn cứ. Đề nghị HĐXX buộc bị đơn vợ chồng ông Y K Bdap, bà H B Ayũn phải trả cho Ngân hàng tổng tiền vay theo Hợp đồng tín dụng số 0481/16/HĐTDHM-CN/131 ngày 09/9/2016 và khế ước nhận nợ số 0481/16/HĐTDHM-CN/131/KUNN03 ngày 18/5/2018 là 239.976.480 đồng và tiền lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng trên cho đến khi trả xong nợ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1]. Về tố tụng: Xét thấy bị đơn ông Y K Bdap sau khi Tòa án ra Quyết định xét xử đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Do vậy, căn cứ vào khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2]. Về nội dung: Xét Hợp đồng tín dụng số 0481/16/HĐTDHM-CN/131 ngày 09/9/2016 và giải ngân theo khế ước nhận nợ số 0481/16/HĐTDHM- CN/131/KUNN03 ngày 18/5/2018 ký kết giữa Ngân hàng với vợ chồng ông Y K Bdap, bà H B Ayũn thì Ngân hàng cho vợ chồng ông Y K Bdap, bà H B Ayũn vay số tiền 150.000.000 đồng, đến nay vợ chồng ông Y K Bdap, bà H B Ayũn còn nợ Ngân hàng 239.976.480 đồng, (trong đó: nợ gốc là 150.000.000 đồng, nợ lãi tính đến ngày 01/4/2022 là 89.976.480 đồng).

[3]. Xét thấy việc các bên ký kết hợp đồng trên, là hoàn toàn tự nguyện, hợp pháp và được pháp luật bảo vệ, bên vay là vợ chồng ông Y Kiôr Bdap, bà H Buôn Ayũn đã vi phạm thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo Hợp đồng cấp tín dụng, khế ước nhận nợ, nên yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng là có căn cứ và cần chấp nhận, buộc vợ chồng ông Y Kiôr Bdap, bà H Buôn Ayũn phải có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng tiền vay còn nợ và tiền lãi phát sinh theo Hợp đồng tín dụng số 0481/16/HĐTDHM-CN/131 ngày 09/9/2016 và khế ước nhận nợ số 0481/16/HĐTDHM-CN/131/KUNN03 ngày 18/5/2018 trên.

Kể từ ngày 02/4/2022, vợ chồng ông Y K Bdap, bà H B Ayũn còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc.

[4]. Xét Hợp đồng thế chấp tài sản: Đối với yêu cầu xử lý tài sản thế chấp, HĐXX xét thấy khi vay tiền, ông Y K Bdap, bà H B Ayũn thế chấp tài sản cho Ngân hàng tại Hợp đồng thế chấp Quyền sử dụng đất số 0380/16/HĐBĐ-131 ngày 09/9/2016 giữa bên nhận thế chấp là Ngân hàng, bên thế chấp là vợ chồng ông Y K Bdap, bà H B Ayũn, các bên đã cùng nhau thỏa thuận ký kết thế chấp tài sản sau:

Thửa đất số 7868, tờ bản đồ số 29, diện tích 9110m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B 850846 do UBND huyện K cấp ngày 14/7/1993 mang tên bà H B Ayũn, tặng cho bà H B Ayũn ngày 29/6/2016, địa chỉ thửa đất tại Buôn K, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.

Hợp đồng thế chấp được ký kết là hoàn toàn tự nguyện và đăng ký giao dịch bảo đảm đúng quy định của pháp luật, cần chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn Ngân hàng. Trong trường hợp vợ chồng ông Y K Bdap, bà H B Ayũn không trả được nợ cho Ngân hàng, cần phải xử lý tài sản thế chấp trên để thanh toán nợ cho Ngân hàng theo quy định tại Điều 299 của Bộ luật dân sự năm 2015 là phù hợp.

[5]. Sau khi vợ chồng ông Y K Bdap, bà H B Ayũn trả đủ số nợ trên thì Ngân hàng có nghĩa vụ trả lại cho vợ chồng ông Y K Bdap, bà H B Ayũn các giấy tờ sau: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B 850846 do UBND huyện K cấp ngày 14/7/1993 mang tên bà H B Ayũn, tặng cho bà H B Ayũn ngày 29/6/2016.

[6]. Trong trường hợp vợ chồng ông Y K Bdap, bà H B Ayũn không trả được số nợ trên thì Ngân hàng có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ cho Ngân hàng.

[7]. Về chi phí tố tụng: Ông Y K Bdap và bà H B Ayũn phải chịu tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ là 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng).

[8]. Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch, trong đó: vợ chồng ông Y K Bdap, bà H B Ayũn phải chịu 239.976.480 đồng x 5% = 11.998.824 đồng.

Hoàn trả lại cho Ngân hàng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm mà Ngân hàng đã nộp là 4.584.890 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 220, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Khoản 1 Điều 299, Điều 463, khoản 1 Điều 466, Điều 468, Điều 500 của Bộ luật dân sự; Khoản 2 Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng; Khoản 1 Điều 58, khoản 1 Điều 68 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về “Mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án về mức thu án phí, lệ phí Tòa án”.

Tuyên xử:

1. Buộc vợ chồng ông Y K Bdap và bà H B Ayũn phải có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần P tiền vay còn nợ là 239.976.480 đồng (Hai trăm ba mươi chín triệu, chín trăm bảy mươi sáu nghìn, bốn trăm tám mươi đồng), trong đó: nợ gốc là 150.000.000 đồng, nợ lãi tính đến ngày 01/4/2022 là 89.976.480 đồng.

Kể từ ngày 02/4/2022, vợ chồng ông Y K Bdap và bà H B Ayũn còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

2. Sau khi vợ chồng ông Y K Bdap và bà H B Ayũn trả xong nợ gốc và lãi thì Ngân hàng Thương mại cổ phần P có nghĩa vụ trả lại cho ông Y K Bdap, bà H B Ayũn giấy tờ sau:

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B 850846 do UBND huyện K cấp ngày 14/7/1993 mang tên bà H B Ayũn, tặng cho bà H B Ayũn ngày 29/6/2016.

3. Trong trường hợp ông Y K Bdap, bà H B Ayũn không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng Thương mại cổ phần P có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Tài sản thế chấp là:

Thửa đất số 7868, tờ bản đồ số 29, diện tích 9110m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B 850846 do UBND huyện K cấp ngày 14/7/1993 mang tên bà H B Ayũn, tặng cho bà H B Ayũn ngày 29/6/2016, địa chỉ thửa đất tại Buôn K, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.

4. Về chi phí tố tụng: Ông Y K Bdap và bà H B Ayũn phải chịu tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ là 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng).

Sau khi thu được tiền của ông Y K Bdap và bà H B Ayũn thì trả lại cho Ngân hàng Thương mại cổ phần P 2.000.000 đồng tiền tạm ứng chi phí xem xét thẩm định tại chỗ mà Ngân hàng đã nộp, theo Giấy thu tiền của Tòa án nhân dân huyện C ngày 10/01/2022.

5. Về án phí: Vợ chồng ông Y K Bdap và bà H B Ayũn phải chịu 11.998.824 đồng (Mười một triệu, chín trăm chín mươi tám nghìn, tám trăm hai mươi bốn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả lại cho Ngân hàng Thương mại cổ phần P 4.584.890 đồng (Bốn triệu năm trăm tám mươi tư nghìn tám trăm chín mươi đồng) tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm mà Ngân hàng đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện C theo biên lai thu số 60AA/2021/0001945 ngày 09/11/2021.

6. Thông báo quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; Đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 07/2022/DS-ST

Số hiệu:07/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cư Kuin - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 01/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;