Bản án 03/2020/DS-ST về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 03/2020/DS-ST NGÀY 07/04/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 07 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 360/2019/TLST-DS ngày 16/12/2019 về việc “tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2020/QĐXXST-DS ngày 02/3/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2020/QĐST-DS ngày 19/3/2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần C.

Địa chỉ trụ sở: đường Trần Hưng Đạo, quận H, thành phố Hà Nội.

Đại diện theo pháp luật của nguyên đơn: Ông Lê Đức T - Chủ tịch Hội đồng quản trị.

Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Phan Gia B – Trưởng phòng Tổng hợp Ngân hàng Thương mại Cổ phần C - Chi nhánh Ninh Thuận là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền số 865/UQ-HĐQT-NHCT18 ngày 16/11/2018).

Địa chỉ: Đường 16 tháng 4, phường M, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận (có mặt).

2. Bị đơn: Ông Bùi Huy Th, sinh năm 1981. Nơi cư trú: Khu phố 6, phường P, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Ông Bùi Huy Th đã vay vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần C - Chi nhánh tỉnh Ninh Thuận, cụ thể như sau:

Hợp đồng thứ nhất: Hợp đồng tín dụng số 590107/2018-HĐTD/NHCT610 ngày 13/4/2018, số tiền vay 170.000.000đ, thời hạn vay 60 tháng, mục đích vay tiêu dùng, lãi suất 11.5%/năm (tại thời điểm vay), lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn, kỳ hạn trả nợ: hàng tháng, số tiền trả nợ gốc hàng tháng 2.833.000 đồng. Từ thời điểm vay đến ngày 10/10/2019 ông Bùi Huy Thọ đã trả được 50.994.000 đồng tiền gốc và 25.092.101 đồng tiền lãi. Từ 10/11/2019 đến nay ông Thọ không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng. Tính đến ngày 07/4/2020 ông Bùi Huy Thọ còn nợ Ngân hàng số tiền 126.064.680 đồng, trong đó tiền gốc: 119.006.000 đồng, tiền lãi: 7.058.680 đồng.

Hợp đồng thứ hai: Giấy đề nghị phát hành thẻ tín dụng kiêm hợp đồng số HĐ 200107445 ngày 19/6/2018, số tiền vay 30.000.000đồng thời hạn vay 24 tháng, mục đích vay tiêu dùng thông qua phát hành thẻ tín dụng quốc tế, lãi suất 18%/năm (tại thời điểm vay), lãi suất hiện nay 20%/năm, lãi suất quá hạn bằng 150% của lãi suất trong hạn, kỳ hạn trả nợ: vào ngày 26 hàng tháng và khi phát sinh giao dịch ghi có vào tài khoản tiền gửi của bên vay và được Ngân hàng tự động hạch toán thu nợ. Tính đến ngày 07/4/2020 ông Bùi Huy Th còn nợ Ngân hàng số tiền 19.020.207đồng, trong đó tiền gốc: 16.267.683 đồng, tiền lãi: 1.952.524 đồng và tiền phí 800.000 đồng.

Do ông Th vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết:

Buộc ông Bùi Huy Th phải trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần C số tiền nợ gốc và lãi tính của Hợp đồng tín dụng số 590107/2018-HĐTD/NHCT610 ngày 13/4/2018 tính đến ngày 07/4/2020 là 126.064.680 đồng, trong đó tiền gốc: 119.006.000 đồng, tiền lãi: 7.058.680đồng.

Buộc ông Bùi Huy Th phải trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần C số tiền nợ gốc và lãi tính của Hợp đồng tín dụng số HĐ 200107445 ngày 19/6/2018 đến ngày 07/4/2020 là 18.220.207đồng, trong đó tiền gốc: 16.267.683 đồng, tiền lãi: 1.952.524 đồng.

Buộc ông Bùi Huy Th phải tiếp tục trả tiền lãi phát sinh đối với số nợ gốc chưa thanh toán kể từ ngày 08/4/2020 cho đến khi trả hết vợ vay theo lãi suất đã được ký kết trong hai hợp đồng tín dụng nêu trên.

Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa bị đơn ông Bùi Huy Thọ vắng mặt dù đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm, cụ thể như sau:

Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án.

Về việc chấp hành pháp luật tố tụng của đương sự: Nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 71 của Bộ Luật tố tụng dân sự, còn bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa nguyên đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện là phù hợp pháp luật. Căn cứ vào lời trình bày của nguyên đơn tại phiên tòa và các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp thì việc khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Lời trình bày và kết quả tranh tụng của đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng [1.1] Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Ngân hàng Thương mại Cổ phần C khởi kiện yêu cầu ông Bùi Huy Th phải trả số tiền nợ đã vay theo Hợp đồng tín dụng số 590107/2018-HĐTD/NHCT610 ngày 13/4/2018 và Hợp đồng tín dụng số HĐ 200107445 ngày 19/6/2018 Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn có địa chỉ tại khu phố 6, phường P, TP. Phan Rang - Tháp Chàm. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân TP. Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.

[1.2] Xử lý về việc vắng mặt của bị đơn: Từ khi thụ lý vụ án cho đến thời điểm mở phiên tòa sơ thẩm Tòa án nhân dân TP. Phan Rang - Tháp Chàm đã thông báo, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông Thọ đều vắng mặt. Điều này chứng tỏ, ông Th đã từ bỏ quyền tham gia tố tụng của mình. Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, cùng với tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong hồ sơ vụ án để làm cơ sở giải quyết và xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

[1.3] Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện, không yêu cầu bị đơn phải trả số tiền 800.000 đồng phí phạt theo hợp đồng tín dụng số HĐ 200107445 ngày 19/6/2018. Xét việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của ông Phan Gia B là tự nguyện, căn cứ khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử đình chỉ đối với phần yêu cầu khởi kiện ông Bảo đã rút.

Nguyên đơn có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại số tiền này bằng một vụ án khác.

[2] Về nội dung tranh chấp:

[2.1] Đối với hợp đồng tín dụng số 590107/2018-HĐTD/NHCT610 ngày 13/4/2018, Hội đồng xét xử thấy rằng: căn cứ lời trình bày của nguyên đơn tại phiên tòa, đối chiếu hợp đồng tín dụng kiêm giấy nhận nợ thấy rằng các giấy tờ trên đều có chữ ký của ông Bùi Huy Th. Căn cứ vào các chứng cứ trên có đủ cơ sở để xác định: Ngày 13/4/2018, ông Bùi Huy Th có vay của Ngân hàng Thương mại Cổ phần C – Chi nhánh Ninh Thuận số tiền 170.000.000đ, thời hạn vay 60 tháng, mục đích vay tiêu dùng mua sắm trang thiết bị sinh hoạt gia đình, lãi suất 11.5%/năm (tại thời điểm vay), lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn, kỳ hạn trả nợ: hàng tháng, số tiền trả nợ gốc hàng tháng 2.833.000 đồng. Từ thời điểm vay đến ngày 10/10/2019 ông Bùi Huy Th đã trả được 50.994.000 đồng tiền gốc và 25.092.101 đồng tiền lãi. Từ 10/11/2019 đến nay ông Th không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng.

[2.2] Đến hạn trả nợ ông Th không thực hiện nghĩa vụ trả nợ là vi phạm Điều 3 của Hợp đồng tín dụng đã ký kết. Từ ngày 10/11/2019 Ngân hàng đã chuyển số tiền nợ gốc phải trả hàng tháng sang nợ quá hạn và áp dụng lãi suất quá hạn bằng 150% của lãi suất trong hạn là phù hợp với Hợp đồng tín dụng đã ký kết và Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng dụng 2010. Tính đến ngày 07/4/2020 ông Bùi Huy Th còn nợ Ngân hàng số tiền 126.064.680 đồng, trong đó tiền gốc: 119.006.000 đồng, tiền lãi: 7.058.680 đồng.

[2.3] Đối với hợp đồng tín dụng số HĐ 200107445 ngày 19/6/2018, Hội đồng xét xử thấy rằng: căn cứ lời trình bày của nguyên đơn tại phiên tòa, đối chiếu giấy đề nghị phát hành thẻ tín dụng kiêm hợp đồng có chữ ký của ông Bùi Huy T. Căn cứ Hợp đồng, bảng sao kê giao dịch thẻ tính dụng hàng tháng có đủ cơ sở để xác định: Ngày 19/6/2018, ông Bùi Huy Th có vay của Ngân hàng thương mại cổ phần C số tiền vay 30.000.000đồng thời hạn vay 24 tháng, mục đích vay tiêu dùng thông qua phát hành thẻ tín dụng quốc tế, lãi suất 18%/năm (tại thời điểm vay), lãi suất hiện nay 20%/năm, kỳ hạn trả nợ: vào ngày 26 hàng tháng và khi phát sinh giao dịch ghi có vào tài khoản tiền gửi của bên vay và được Ngân hàng tự động hạch toán thu nợ. Đến hạn trả nợ ông Th không thực hiện nghĩa vụ thanh toán nên Ngân hàng đã chuyển toàn bộ dư nợ gốc còn lại sang nợ quá hạn và áp dụng lãi suất quá hạn bằng 150% của lãi suất trong hạn là phù hợp với hợp đồng đã ký kết. Tính đến ngày 07/4/2020 ông Bùi Huy Th còn nợ Ngân hàng số tiền 18.220.207 đồng, trong đó tiền gốc: 16.267.683 đồng, tiền lãi: 1.952.524 đồng.

[2.4] Đối chiếu với các tài liệu, chứng cứ mà nguyên đơn đã cung cấp cho Tòa án, cũng như trong quá trình giải quyết vụ án thì ông Bùi Huy Th vắng mặt, không cung cấp bất kỳ tài liệu, chứng cứ nào để phản bác hoặc phản tố đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng. Vì vậy, căn cứ vào Điều 466 của Bộ Luật dân sự và khoản 2 Điều 92 của Bộ Luật tố tụng dân sự thì yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, phù hợp pháp luật.

[3] Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với những nhận định nêu trên nên được chấp nhận.

[4] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, được hoàn trả số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 2 Điều 244, Điều 271, 273 của Bộ Luật tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 357, 463, 466 và Điều 468 của Bộ Luật dân sự;

Căn cứ khoản 16 Điều 4 và Điều 91 của Luật các Tổ chức tín dụng;

Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần C về việc yêu cầu ông Bùi Huy Th phải trả số tiền 800.000 đồng (tám trăm ngàn đồng) phí phạt của theo hợp đồng tín dụng số HĐ 200107445 ngày 19/6/2018. Ngân hàng Thương mại Cổ phần C có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại bằng một vụ án khác.

2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần C.

3. Buộc ông Bùi Huy Thọ có nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần C (theo hợp đồng tín dụng số 590107/2018-HĐTD/NHCT610 ngày 13/4/2018) số tiền 126.064.680 đồng (một trăm hai mươi sáu triệu, không trăm sáu mươi bốn ngàn, sáu trăm tám mươi đồng) trong đó tiền gốc: 119.006.000 đồng, tiền lãi: 7.058.680đồng.

Buộc ông Bùi Huy Th có nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần C (theo hợp đồng tín dụng số HĐ 200107445 ngày 19/6/2018) số tiền 18.220.207 đồng (mười tám triệu, hai trăm hai mươi ngàn, hai trăm lẻ bảy đồng), trong đó tiền gốc: 16.267.683 đồng, tiền lãi: 1.952.524 đồng.

4. Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm ông Bùi Huy Th còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong Hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng Thương mại Cổ phần C thì lãi suất mà ông Bùi Huy Th phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng theo Quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng Thương mại Cổ phần C.

5. Về án phí: Ông Bùi Huy Th phải chịu 7.214.000 đồng (bảy triệu hai trăm mười bốn ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn lại cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần C số tiền: 3.466.000 đồng (ba triệu bốn trăm sáu mươi sáu ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0020539 ngày 12/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được Thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận Thi hành án, quyền yêu cầu Thi hành án, tự nguyện Thi hành án hoặc bị cưỡng chế Thi hành án theo quy định các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Án xử công khai có mặt nguyên đơn, quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt, quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

88
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 03/2020/DS-ST về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:03/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 07/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;