Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 02/2021/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG SƠN, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 02/2021/DS-ST NGÀY 26/05/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 26 tháng 5 năm 2021, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án Dân sự thụ lý số 13/2020/TLST- DS ngày 09 tháng 11 năm 2020 về ‘’Tranh chấp Hợp đồng tín dụng’’ theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2021/QĐXX-ST ngày 16 tháng 4 năm 2021và Quyết định hoãn phiên toà số 06/2021/QĐST - DS ngày 29/4/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.

Đa chỉ: Số 02 Láng H, phường Thành C, Quận Ba Đình, TP Hà Nội.

- Người đại diện theo pháp luật: Ông Tiết Văn T - Chức vụ : Tổng Giám đốc.

- Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thế T- chức vụ: Phó giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. (Có mặt).

2. Bị đơn: Bà Lê Thị Ch, sinh năm 1951(Có mặt).

Đa chỉ: huyện Đông S, tỉnh Thanh Hóa.

-Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Lê Công C, sinh năm: 1988 (Vắng mặt) Địa chỉ: tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 06/10/2020, bản tự khai và tại phiên tòa, nguyên đơn là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam trình bày:

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa đã đồng ý cho bà Lê Thị Ch tín chấp để vay vốn theo sổ vay vốn theo Sổ vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn số 3517131263377 ngày 16/8/2018. Mức cho vay: 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng); Mục đích vay vốn: Làm nhôm kính nuôi gà, vịt, thả cá, trồng lúa (hộ gia đình không có đăng ký kinh doanh, vay vốn phát triển kinh tế gia đình không có mục đích lợi nhuận); Thời hạn: 12 tháng kể từ ngày 16/8/2018. Quá trình thực hiện bà Lê Thị Ch tuân thủ đầy đủ các điều khoản đã ký kết trong hợp đồng. Nhưng đến ngày 09/8/2019 thì bà Ch đã vi phạm hợp đồng. Dư nợ đến ngày 30/9/2020 là 100.000.000 đồng, lãi suất tại thời điểm vay: 9% năm, lãi suất quá hạn: 13,5% năm (kể từ ngày 09/8/2019), dư nợ quá hạn là 100.000.000 đồng, dư nợ trong hạn: 0 đồng. Nợ lãi tạm tính đến ngày 30/9/2020 là 14.670.232 đồng. Tổng nợ gốc và lãi tạm tính đến ngày 30/9/2020 là 114.671.232 đồng (một trăm mười bốn triệu sáu trăm bảy mốt nghìn hai trăm ba mươi hai nghìn đồng).

Để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ, bà Lê Thị Ch đã giao cho Ngân hàng giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số CĐ 089615 do UBND huyện Đông Sơn cấp ngày 17/6/2016, địa chỉ tại thôn 5, xã Đông Anh (nay là xã Đông Khê), huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá; tài sản thuộc quyền sử dụng, sở hữu của bà Lê Thị Ch. Việc giao tài sản cho Ngân hàng giữ là tự nguyện và theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình vay vốn, bà Lê thị Ch đã vi phạm nghĩa vụ đã ký kết trong các sổ vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn và cam kết đối với Ngân hàng. Ngân hàng đã nhiều lần thông báo, là việc với bà Ch nhằm tìm cách tháo gỡ và khắc phục khó khăn tìm nguồn để trả nợ cho Ngân hàng, tuy nhiên bà Ch đã không thực hiện được nghĩa vụ để trả nợ cho Ngân hàng. Bà Ch còn nợ Ngân hàng tổng nợ gốc và tạm tính đến ngày 30/9/2020 là 114.671.232 đồng (một trăm mười bốn triệu sáu trăm bảy mốt nghìn hai trăm ba mươi hai nghìn đồng). Trong đó: Nợ gốc: 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng). Nợ lãi tạm tính: 14.671.232 đồng ( mười bốn triệu sáu trăm bảy mươi mốt nghìn hai trăm ba mươi hai đồng), việc bà Ch không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đã gây ra nhiều khó khăn, thiệt hại cho Ngân hàng. Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bên cho vay, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam làm đơn đề nghị Toà án huyện đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá giải quyết.

Buộc bà Lê Thị Ch phải trả nợ gốc cùng tiền lãi phát sinh tương ứng tại sổ vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn số 3517131263377 ngày 16/8/2018 bà đã ký với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa số tiền là 114.671.232 đồng (một trăm mười bốn triệu sáu trăm bảy mốt nghìn hai trăm ba mươi hai nghìn đồng) gồm nợ gốc:

100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng). Nợ lãi tạm tính: 14.671.232 đồng ( mười bốn triệu sáu trăm bảy mươi mốt nghìn hai trăm ba mươi hai đồng) và số lãi phát sinh từ ngày 30/9/2020 cho đến khi trả hết nợ gốc theo lãi suất quá hạn mà hai bên đã thoả thuận trong sổ vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn.

Tại bản tự khai ngày 27/11/2020 bà Lê Thị Ch trình bày: Ngày 16/8/2018 bà có ký Hợp đồng tín chấp vay vốn Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa với số tiền là 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng) với lãi suất 9% năm. Mục đích vay là bà vay cho bà Nguyễn Thị Ninh, sinh năm 1957 địa chỉ thôn 3 Đông Anh (nay là thôn Viên Khê 1), xã Đông Khê, huyện đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Quá trình vay bà Ninh là người trực tiếp làm hồ sơ với Ngân hàng còn bà là người cho bà Ninh mượn Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông Thức là người chở bà đến Ngân hàng lấy tiền, bà là người trực tiếp ký và nhận tiền với Ngân hàng sau đó bà là người trực tiếp đưa tiền cho ông Thức mang về đưa cho bà Ninh, anh Lê Công C, sinh năm 1983 địa chỉ thôn 4 Đông Anh , xã Đông Khê, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá là cháu ruột của bà Ninh việc sử dụng số tiền là 100.000.000 đồng giữa anh Cương và bà Ninh sử dụng tiền như thế nào tôi không biết. Bà Ninh là người trực tiếp trả lãi cho Ngân hàng.

Tại bản tự khai ngày 27/11/2020 anh Lê Công C trình bày: Anh là cháu họ của bà Lê Thị Ch có vay vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa với số tiền là 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng) việc bà Ch vay vốn với Ngân hàng anh không biết gì, bà Ch chỉ nhờ anh với tư cách thừa kế với khoản vay vì bà Ch chỉ đứng tên một mình trong sổ hộ khẩu. Nay Ngân Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa khởi kiện đối với bà Ch anh đề nghị Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên toà hôm nay: Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt không có lý do.

- KSV phát biểu quan điểm: Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Việc chấp hành pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư ký đúng theo quy định của BLTTDS. Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng theo quy định của BLTTDS. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không chấp hành quy định của BLTTDS.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX căn cứ Điều 26, diểm b khoản 1 Điều 35; Điều 147; khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; 271;278 ; 280 BLTTDS năm 2015; Các Điều 463,468,466,357 BLDS năm 2015; Nghị quyết 326 về án phí lệ phí: Chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn trả cho nguyên đơn số tiền gốc và lãi tính đến ngày 26/5/2021 là 71.894.657 đồng và buộc bị đơn trả lãi theo hợp đồng từ ngày 16/8/2018 cho đến khi trả xong nợ gốc.

Bà Lê Thị Ch không phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa yêu cầu Tòa án buộc bà Lê Thị Ch trả nợ gốc và lãi theo hợp đồng tín dụng đã ký kết. Mục đích vay vốn để phát triển kinh tế gia đình không có mục đích lợi nhuận. Vì vậy khi xảy ra tranh chấp thuộc lĩnh vực tranh chấp dân sự được quy định tại khoản 3 Điều 26 BLTTDS. Bị đơn có địa chỉ tại thôn 3 Đông Anh (thôn Viên Khê 1), xã Đông Khê, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà an nhân dân huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Đối với nguyên đơn: Trong quá trình giải quyết vụ án ông Tiết Văn T uỷ quyền cho ông Lê Ngọc A theo quyết định uỷ quyền số 2965/QĐ-NHNo-PC ngày 27/12/2020. Ông Lê Ngọc A uỷ quyền lại cho ông Nguyễn Thế T là phó Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa theo giấy uỷ quyền ngày 13/12/2020. Văn bản uỷ quyền của Nguyên đơn đầy đủ nội dung uỷ quyền, phạm vi uỷ quyền, thời hạn uỷ quyền theo dung quy định của pháp luật. Xét thấy việc uỷ quyền của nguyên đơn là hoàn toàn hợp lệ nên HĐXX chấp nhận.

Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tiến hành các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật đối với anh Lê Công C là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Anh C đã nhận được thông báo thụ lý vụ án anh C không có ý kiến gì và anh Cương cũng đã trình bầy bản tự khai. Anh C đã được nhận thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải và các văn bản tố tụng khác, nhưng anh C không chấp hành tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải anh C vắng mặt không có lý do. Anh C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 mà vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Xét tính hợp pháp của hợp đồng thì thấy Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện Đông S, tỉnh Thanh Hóa ký kết số vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn số 3517- 131263377 ngày 16/8/2018 đối với bà Lê Thị Ch được thực hiện theo các quy định của pháp luật. Nội dụng các khoản cam kết trong hợp đồng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của các bên được nhà nước cấp phép. Do đó hợp đồng trên có hiệu lực pháp luật buộc các bên phải thực hiện theo hợp đồng.

Để đảm bảo cho khoản tiền vay 100.000.000 đồng bà Lê Thị Ch đã dùng tài sản để đảm bảo là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số GCN: CH00933 của UBND huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá cấp ngày 17/6/2016 mang tên Lê Thị Ch. Việc giao tài sản cho Ngân hàng giữ là tự nguyện và theo đung quy định của pháp luật.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng bà Ch đã thanh toán được số tiền gốc là 50.000.000 đồng và lãi 9.616.439 đồng. Hiện bà Ch còn nợ số tiền gốc tính đến ngày 26/5/2021 là 50.000.000 đồng và lãi trong hạn là 15.122. 466 đồng, lãi quá hạn là 6.772.191 đồng. Tổng cộng: 71.894.657 đồng.

[3] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Quá trình thực hiện hợp đồng, bà Ch đã nhận đủ số tiền vay theo đúng hợp đồng được thể hiện nhận nợ ngày 16/8/2018. Bà Ch đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ ngày 09/8/2019. Như vậy Ngân hàng đã thực hiện đúng nghĩa vụ của mình theo hợp đồng. Việc bà Ch không thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng là vi phạm hợp đồng về thời hạn trả nợ. Vì vậy, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu bà Ch trả nợ gốc, lãi trong hạn, lãi quá hạn tính đến ngày 26/5/2021 là có cơ sở.

Buộc bà Ch phải có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

Sổ vay vốn số 3517-131263377 ngày 16/8/2018 - Nợ gốc = 50.000 000 đồng - Nợ lãi trong hạn = 15.122.466 đồng - Nợ lãi quá hạn = 6.772.191 đồng Tổng cộng = 71.894.657 đồng là đúng với quy định và thoả thuận trong hợp đồng mà các bên đã ký.

Tại phiên toà: Bà Ch đồng ý gửi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số GCN: CH00933 của UBND huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá cấp ngày17/6/2016 mang tên Lê Thị Ch cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá giữ cho đến khi bà trả hết nợ thì Ngân hàng có trách nhiệm trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá cũng đồng ý với ý kiến của bà Ch. Vì vậy, HĐXX công nhân sự thoả thuân của các đương sự.

[4] Về án phí: Bà Ch thuộc trường hợp người cao tuổi nên không phải chịu án phí theo quy định pháp luật. Trả lại số tiền tạm ứng án phí cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agibank) .

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 3 điều 144; Điều 147; khoản 1 Điều 175; khoản 2 Điều 277, khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Các Điều 271,273, 280 - BLTTDS; Các Điều 293; 357; 463; 466; 468 - Bộ luật dân sự năm 2015 ; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326 về án phí.

Xử: - Chấp nhận đơn khởi kiện của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) đối với bà Lê Thị Ch. Buộc bà Lê Thị Ch phải trả cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agibank) số tiền còn nợ theo sổ vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn số 3517- 131263377 ngày 16/8/2018 tính đến ngày 26/5/2021 cho đến khi trả nợ xong, cụ thể là:

- Nợ gốc = 50.000 000 đồng - Nợ lãi trong hạn = 15.122.466 đồng - Nợ lãi quá hạn = 6.772.191 đồng Tổng cộng = 71.894.657 đồng. (bảy mươi mốt triệu tám trăm chín tư nghìn sáu trăm năm bảy đồng).

Công nhận sự thoả thuận giữa nguyên đơn và bị đơn về việc bị đơn giao cho nguyên đơn giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số GCN: CH00933 của UBND huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá cấp ngày17/6/2016 mang tên Lê Thị Ch cho đến khi bị đơn trả hết nợ xong thì nguyên đơn có trách nhiệm trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số GCN: CH00933 của UBND huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá cấp ngày17/6/2016 cho bà Lê Thị Ch.

Về án phí:

- Bà Lê Thị Ch được miễn toàn bộ án phí theo quy định của pháp luật.

- Trả lại số tiền tạm ứng án phí cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Ageibank) đã nộp là 2.867.000 đồng (Hai triệu tám trăm sáu mươi bảy nghìn đồng) theo biên lai số AA/2019/0008628 ngày 06/11/2020 của Chị cục Thi hành án dân sự huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của sốtiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thoả thuận trong sổ vay v n kiêm phương án sử dụng vốn cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc. Trường hợp trong sổ vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn, các bên thoả thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hang cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hang cho vay theo quyết định của Toà án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc từ ngày bản sao bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 02/2021/DS-ST

Số hiệu:02/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;