TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 911/2023/KDTM-PT NGÀY 31/08/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG THUÊ THIẾT BỊ VÀ THI CÔNG
Trong các ngày 21 tháng 6, ngày 05, 28 tháng 7, ngày 08, 22, 31 tháng 8 năm 2023 tại Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 20/2023/TLPT-KDTM ngày 16 tháng 02 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng thuê thiết bị và thi công”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 974/2022/KDTM-ST ngày 30 tháng 11 năm 2022 của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo và kháng nghị theo Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 10/QĐ-VKS-KDTM ngày 13 tháng 12 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 6638/2023/QĐXX-PT ngày 24/5/2023, Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 2795/2023/QĐ-HPT ngày 21/6/2023, số 2830/2023/QĐ-PT ngày 05/7/2023, số 3166/2023/QĐ-PT ngày 28/7/2023, số 10747/2023/QĐ-PT ngày 08/8/2023 và số 11474/2023/QĐ-PT ngày 22/8/2023, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Công ty TNHH K Trụ sở: xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước.
Đại diện:
+ Ông Cao Thế T, sinh năm: 1962 (có mặt) (Giấy ủy quyền ngày 12/9/2022)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Lê Song T1 - thuộc Văn phòng L (có mặt).
Bị đơn: Công ty TNHH C Trụ sở: OP-04.38, số A Hồ N, Phường I, quận P, TP. Đại diện: Ông Lê Đình T2, sinh năm: 1994 (có mặt) (Giấy ủy quyền ngày 15/6/2022) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Phạm Thị Việt H, Luật sư Lưu Tấn Anh T3 - thuộc Công ty L1 - Đoàn Luật sư Thành phố H (có mặt).
Người kháng cáo: Công ty TNHH K là nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nội dung bản án sơ thẩm đã thể hiện:
* Theo đơn khởi kiện đề ngày 29/3/2022, đơn khởi kiện bổ sung đề ngày 28/4/2022 và các lời khai trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, nguyên đơn Công ty TNHH K (có ông Cao Thế T và ông Lê Song T1 đại diện theo ủy quyền) trình bày:
Ngày 11/02/2020, Công ty TNHH K (gọi tắt là Công ty K) và Công ty TNHH C (gọi tắt là Công ty C) có ký kết Hợp đồng Kinh tế số 01.SR/HĐTT-2020/MD-KG (gọi tắt là Hợp đồng) với những nội dung sau:
Công ty C (Bên A) đồng ý thuê và Công ty K (Bên B) đồng ý cho thuê các thiết bị thi công để thực hiện công trình thi công nạo vét luồng Soài Rạp toàn tuyến, dự án duy tu, nạo vét luồng Soài Rạp năm 2018. Giá trị Hợp đồng là 15.100.000.000 (mười lăm tỷ một trăm triệu) đồng. Ngày 16/4/2020, Công ty K và Công ty C ký kết Phụ lục Hợp đồng số 01 (gọi tắt là Phụ lục Hợp đồng), với nội dung điều chỉnh, bổ sung một số nội dung của Hợp đồng Kinh tế số 01 đã được hai bên ký kết. Đơn giá, giá trị Hợp đồng là 10.000.000.000 (mười tỷ) đồng. Trong đó giá trị hợp đồng thi công tại xã V là 2.000.000.000 (hai tỷ) đồng và tại xã G là 8.000.000.000 (tám tỷ) đồng. Địa điểm thi công: bổ sung địa điểm thi công tại Công trường thi công tại xã G, huyện G, tỉnh Tiền Giang.
Thực hiện các thỏa thuận tại Hợp đồng và Phụ lục Hợp đồng, Công ty K đã cho Công ty C thuê các thiết bị thi công để thực hiện công trình “Thi công nạo vét luồng Soài Rạp toàn tuyến, dự án duy tu, nạo vét luồng Soài Rạp năm 2018”.
Ngày 26/6/2020, hai bên đã ký Biên bản xác nhận giá trị thuê phương tiện Đợt 1 đối với thời gian thuê phương tiện thi công từ ngày 20/3/2020 đến ngày 26/6/2020. Theo đó, Công ty C đã đồng ý thanh toán đợt 1 cho Công ty K số tiền là 7.500.000.000 (bảy tỷ năm trăm triệu) đồng.
Tuy nhiên, sau đó Công ty C đã không thực hiện việc thanh toán đối với thời gian thuê phương tiện thi công từ ngày 27/6/2020 đến ngày kết thúc công việc tại hiện trường là ngày 14/8/2020, cụ thể như sau:
- Số tiền thuê phương tiện Tàu hút SG.7895 (K) và thi công mà bị đơn còn thiếu: Căn cứ vào Hợp đồng và Phụ lục Hợp đồng thì tiền thuê phương tiện Tàu hút SG.7895 (K) và thi công là 2.300.000.000 (hai tỷ ba trăm triệu) đồng/tháng.
Số tiền bị đơn còn nợ chưa thanh toán là 3.373.333.333 (ba tỷ ba trăm bảy mươi ba triệu ba trăm ba mươi ba ngàn ba trăm ba mươi ba) đồng, được chia làm 2 mốc thời gian thuê và thi công như sau:
+ Thời gian thuê và thi công từ ngày 27/6/2020 đến ngày 25/7/2020 (29 ngày): Số tiền bị đơn còn nợ nguyên đơn là 2.223.333.333 (hai tỷ hai trăm hai mươi ba triệu ba trăm ba mươi ba ngàn ba trăm ba mươi ba) đồng;
+ Thời gian thuê thiết bị và thi công từ ngày 26/7/2020 đến hết ngày 14/8/2020 (19 ngày). Tuy nhiên, nguyên đơn đồng ý tính tròn là 15 ngày, số tiền bị đơn còn nợ nguyên đơn chưa thanh toán là 1.150.000.000 (một tỷ một trăm năm mươi triệu) đồng.
- Số tiền thuê phương tiện Tàu kéo SG.6508 và thi công mà bị đơn còn thiếu: Căn cứ vào Hợp đồng và Phụ lục Hợp đồng thì tiền thuê phương tiện Tàu kéo SG.6508 và thi công là 200.000.000 (hai trăm triệu) đồng/tháng.
Số tiền bị đơn còn nợ chưa thanh toán là 293.333.333 (hai trăm chín mươi ba triệu ba trăm ba mươi ba ngàn ba trăm ba mươi ba) đồng, được chia làm 2 mốc thời gian thuê và thi công như sau:
+ Thời gian thuê và thi công từ ngày 27/6/2020 đến ngày 25/7/2020 (29 ngày): Số tiền bị đơn còn nợ nguyên đơn là 193.333.333 (một trăm chín mươi ba triệu ba trăm ba mươi ba ngàn ba trăm ba mươi ba) đồng;
+ Thời gian thuê thiết bị và thi công từ ngày 26/7/2020 đến hết ngày 14/8/2020 (19 ngày). Tuy nhiên nguyên đơn đồng ý tính tròn là 15 ngày, số tiền bị đơn còn nợ chưa thanh toán là 100.000.000 (một trăm triệu) đồng.
Căn cứ theo Điều 2 của Phụ lục Hợp đồng có nội dung: Trên cơ sở thời gian thực tế được nghiệm thu hoàn thành, hai bên sẽ thực hiện việc quyết toán Hợp đồng và Bên A (Công ty C) sẽ thanh toán cho Bên B (Công ty K) số tiền còn lại.
Tuy nhiên, kể từ khi nguyên đơn kết thúc công việc thi công thực tế tại hiện trường (ngày 14/8/2020) cho đến nay, bị đơn đã không thực hiện việc thanh toán theo Hợp đồng đã ký kết giữa hai bên.
Do đó, nguyên đơn đã nhiều lần có văn bản gửi tới bị đơn yêu cầu thanh toán số tiền còn nợ. Thời hạn thanh toán được xác định cụ thể: chậm nhất là sau 10 (mười) ngày kể từ ngày 18/3/2022.
Số tiền nợ gốc mà bị đơn phải trả cho nguyên đơn là 3.666.666.666 (ba tỷ sáu trăm sáu mươi sáu triệu sáu trăm sáu mươi sáu) đồng.
Ngoài ra, nguyên đơn còn yêu cầu bị đơn phải trả lãi phát sinh trên số nợ gốc chưa thanh toán theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015, mức lãi suất là 10%/năm. Thời hạn tính lãi tạm tính từ ngày 29/3/2022 đến ngày 17/10/2022 là 203.926.941 (hai trăm lẻ ba triệu chín trăm hai mươi sáu ngàn chín trăm bốn mươi mốt) đồng.
Như vậy, tổng số tiền mà bị đơn phải trả cho nguyên đơn (với số tiền lãi tạm tính đến ngày 17/10/2022) là: 3.666.666.666 đồng + 203.926.941 đồng = 3.870.593.607 (ba tỷ tám trăm bảy mươi triệu năm trăm chín mươi ba ngàn sáu trăm lẻ bảy) đồng.
Lãi được tiếp tục tính từ ngày 18/10/2022 trở đi cho đến khi bị đơn trả hết nợ gốc theo mức lãi suất 10%/năm.
* Bị đơn Công ty C (có ông Lê Đình T2 đại diện theo ủy quyền) trình bày:
Bị đơn Công ty C không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty K bởi các lý do sau:
Nguyên đơn không đáp ứng điều kiện về nội dung và khối lượng công việc được nêu tại Điều 1 của Hợp đồng kinh tế số 01.SR/HĐTT-2020/MD-KG ngày 11/02/2020 và Phụ lục Hợp đồng số 01 ngày 16/04/2020 mà hai bên đã ký kết.
Tại Điều 1 của Phụ lục 01 nêu rõ “Công ty K phải duy trì 01 tàu hút phun có công suất tương đương hoặc lớn hơn thiết bị chính để dự phòng trong suốt thời gian thực hiện Hợp đồng. Bên B phải duy trì các thiết bị hoạt động tốt, đảm bảo năng suất hút phun tối thiểu đạt 40.000 m³/ngày (khối rời theo sức chứa của các phương tiện chờ)”.
Đối với điều kiện về duy trì 01 tàu hút phun có công suất tương đương hoặc lớn hơn thiết bị chính để dự phòng trong suốt thời gian thực hiện Hợp đồng. Nguyên đơn đã không đảm bảo được điều kiện này, trong suốt thời gian thi công, các thiết bị của nguyên đơn đã không hoạt động tốt, không có các thiết bị dự phòng để thay thế khi các thiết bị xảy ra vấn đề, điều này đã được hai bên thông báo qua lại bằng các Công văn trao đổi, cụ thể là Công văn 01/VNMD/KG-2020 ngày 15/04/2020; Công văn 02/VNMD/KG-2020 ngày 17/04/2020; Công văn 03/VNMD/KG-2020 ngày 06/05/2020 và Công văn 04/VNMD/KG-2020 ngày 02/06/2020.
Đối với điều kiện về đảm bảo năng suất hút phun tối thiểu 40.000 m³/ngày, nguyên đơn cũng chưa đáp ứng, điều này được thể hiện qua số liệu tính toán, các tàu của nguyên đơn chỉ đạt được 576.826 m³ cho tổng thời gian thực hiện tại công trình (tương đương khoảng 6000 m³/ngày cho 3,2 tháng kể từ ngày 16/4/2020 đến ngày 25/7/2020 cho dự án Nạo vét duy tu luồng Soài Rạp năm 2018).
Tàu kéo SG.6508 được sử dụng với chức năng kéo tàu hút SG.7895 (K) đến bãi G, tức chỉ thực hiện nhiệm vụ kéo tàu hút đến bãi G vào ngày đầu tiên và ngày cuối cùng. Do đó, không đủ cơ sở để xác định tàu hút SG.7895 thực hiện công việc trong suốt thời gian từ ngày 27/06/2020 đến 14/08/2020.
Trước tình hình không đảm bảo về tiến độ và năng suất công trình, bằng Công văn số 32/KG.20 ngày 05/06/2020, nguyên đơn đã thoả thuận chấm dứt Hợp đồng số 01-SR/HĐTT-2020/MD-KG từ ngày 08/06/2020 và ngày 26/06/2020 các bên đã ký Biên bản xác nhận giá trị thuê phương tiện đợt 1 và biên bản xác nhận thời gian thuê đợt 1, đối với thời gian thuê phương tiện thi công từ ngày 20/03/2020 đến ngày 26/06/2020, với số tiền thanh toán 7.500.000.000 (bảy tỷ năm trăm triệu) đồng, số tiền này bằng với số tiền bảo lãnh tạm ứng theo Hợp đồng. Bị đơn đã chi vượt với khối lượng mà nguyên đơn đã thi công.
Nguyên đơn không cung cấp được chứng từ để yêu cầu thanh toán theo Điều 3.3 Hợp đồng kinh tế số 01.SR/HĐTT-2020/MD-KG ngày 11/02/2020. Đến thời điểm hiện tại bị đơn vẫn chưa nhận được hồ sơ quyết toán hợp lệ của nguyên đơn, do vậy không có cơ sở để hai bên tiến hành quyết toán hợp đồng.
Dự án thi công thực hiện công trình nạo vét luồng Soài Rạp toàn tuyến, dự án duy tu, nạo vét luồng Soài Rạp năm 2018 đã hoàn tất vào năm 2020, trong suốt hai năm vừa qua nguyên đơn không có bất kỳ văn bản nào yêu cầu thanh toán, dựa trên các chứng từ thanh toán, hồ sơ thanh toán bị đơn đã đóng số dự án và xác định đã hoàn tất Hợp đồng với nguyên đơn. Đồng nghĩa với việc nghiệm thu công trình ở thời điểm hiện tại là không thể thực hiện và không có cơ sở để thực hiện.
Tòa án đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án. Do đó, Tòa án đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử.
* Tại phiên tòa:
- Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Yêu cầu bị đơn có trách nhiệm thanh toán cho nguyên đơn số tiền còn nợ phát sinh từ Hợp đồng Kinh tế số 01.SR/HĐTT-2020/MD-KG ngày 11/02/2020 và Phụ lục Hợp đồng số 01 ngày 16/4/2020 là 3.902.739.725 (ba tỷ chín trăm lẻ hai triệu bảy trăm ba mươi chín ngàn bảy trăm hai mươi lăm) đồng. Trong đó:
+ Nợ gốc: 3.666.666.666 (ba tỷ sáu trăm sáu mươi sáu triệu sáu trăm sáu mươi sáu ngàn sáu trăm sáu mươi sáu) đồng (bao gồm tiền thuê phương tiện Tàu hút K 17 và thi công là 3.373.333.333 đồng và tiền thuê phương tiện tàu kéo còn thiếu là 293.333.333 đồng).
+ Nợ lãi phát sinh tạm tính từ ngày 29/3/2022 đến ngày xét xử (ngày 18/11/2022) theo mức lãi suất 10%/năm là 236.073.059 (hai trăm ba mươi sáu triệu không trăm bảy mươi ba ngàn không trăm năm mươi chín) đồng.
Thời hạn thanh toán: Thanh toán một lần ngay sau khi có bản án có hiệu lực pháp luật.
Cơ sở pháp lý phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên là Hợp đồng Kinh tế số 01.SR/HĐTT-2020/MD-KG ngày 11/02/2020 và Phụ lục Hợp đồng số 01 ngày 16/4/2020. Sau đó, ngày 16/6/2020 các bên ký biên bản thỏa thuận hợp đồng số 02.SR/BBTT-2020/MD-KG. Biên bản thỏa thuận này là một phần không thể tách rời của Hợp đồng và phụ lục hợp đồng.
Ngoài ra còn có các công văn trao đổi qua lại giữa các bên.
Đối với việc thi công công trình tại xã V (nay là xã K) thì hai bên đã thực hiện và thanh toán đầy đủ, không có tranh chấp.
Đối với việc thi công tại xã G thì bị đơn chưa thanh toán cho nguyên đơn tiền thuê thiết bị và thi công từ ngày 27/6/2020 đến ngày 14/8/2020.
Về đơn giá và giá trị hút phun tại khu vực xã G thể hiện trong biên bản thỏa thuận hợp đồng ngày 16/6/2020 là 22.940 đồng/m³ x 350.000m³ = 8.029.000.000 đồng.
Về điều khoản thanh toán (Điều 3.2 của Biên bản thỏa thuận hợp đồng ngày 16/6/2020): Sau khi hai bên thống nhất ký Biên bản thỏa thuận và hai bên ký hoàn thiện hồ sơ thanh toán gồm Biên bản xác nhận thời gian thuê và Biên bản xác nhận giá trị thuê. Bên A (bị đơn) sẽ thanh toán toàn bộ giá trị tại khu vực xã V và thanh toán trước một phần cho bên B (nguyên đơn) giá trị thực hiện tại khu vực G, tương ứng số tiền bị đơn đã tạm ứng cho nguyên đơn.
Về quyết toán (Điều 3.3): Sau khi bị đơn hoàn thành, nghiệm thu công trình hai bên sẽ tiến hành quyết toán hợp đồng trên cơ sở giá trị khối lượng hoàn thành.
Như vậy, các thỏa thuận trong hợp đồng, phụ lục hợp đồng và biên bản ngày 16/6/2020 là tự nguyện, không trái quy định pháp luật, phù hợp với các quy định của pháp luật tại các Điều 401, 403 Bộ luật dân sự 2015.
Về tiền lãi: Nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả tiền lãi phát sinh theo mức lãi suất 10%/năm căn cứ theo quy định tại Điều 468 của Bộ luật dân sự, thời gian tính lãi từ ngày 29/3/2022 đến ngày 18/11/2022 là 235 ngày. Tổng cộng tiền lãi là 236.073.059 đồng.
Yêu cầu bị đơn thanh toán một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Nguyên đơn xác nhận đã nộp tất cả các tài liệu chứng cứ cho Tòa án.
- Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày:
Không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, lý do:
- Nguyên đơn không đáp ứng điều kiện về nội dung và khối lượng công việc được nêu tại Điều 1 của Hợp đồng kinh tế số 01.SR/HĐTT-2020/MD-KG ngày 11/02/2020 và Phụ lục Hợp đồng số 01 ngày 16/04/2020 và tại Bản thỏa thuận hợp đồng ngày 16/6/2020 mà hai bên đã ký kết.
- Nguyên đơn không cung cấp được chứng từ để yêu cầu thanh toán theo Điều 3.3 Hợp đồng kinh tế số 01.SR/HĐTT-2020/MD-KG ngày 11/02/2020.
- Không đủ cơ sở để các bên có thể nghiệm thu lại công trình tại thời điểm hiện tại. Dự án thi công thực hiện công trình nạo vét luồng Soài Rạp toàn tuyến, dự án duy tu, nạo vét luồng Soài Rạp năm 2018 đã hoàn tất vào năm 2020, trong suốt hai năm vừa qua nguyên đơn không có bất kỳ văn bản nào yêu cầu thanh toán, dựa trên các chứng từ thanh toán, hồ sơ thanh toán bị đơn cũng đã đóng số dự án và xác định đã hoàn tất Hợp đồng với nguyên đơn.
Việc nguyên đơn tiếp tục thi công kể từ ngày 27/6/2020 cho đến ngày 24/7/2020 là nhằm mục đích làm bù khối lượng công việc còn thiếu mà bị đơn đã thanh toán vượt cho nguyên đơn tại Biên bản xác nhận giá trị thuê phương tiện đợt 1 ngày 26/6/2020.
Đại diện theo ủy quyền của bị đơn thống nhất với ý kiến trình bày của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn. Bị đơn xác nhận đã nộp tất cả các tài liệu chứng cứ cho Tòa án.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Phú Nhuận phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và ý kiến về việc giải quyết vụ án:
+ Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Thẩm phán và Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm đều tuân thủ đúng trình tự, thủ tục tố tụng. Tòa án giải quyết vụ án đúng thẩm quyền; Thẩm phán đã tiến hành thu thập chứng cứ đầy đủ, xác định đúng thành phần tham gia tố tụng.
+ Về nội dung: Căn cứ vào chứng cứ do nguyên đơn và bị đơn cung cấp có trong hồ sơ vụ án thể hiện:
Giữa nguyên đơn và bị đơn có ký kết Hợp đồng kinh tế số 01 ngày 11/2/2020 và phụ lục Hợp đồng số 01 ngày 16/4/2020, theo nội dung của Hợp đồng và Phụ lục hợp đồng thì bị đơn đồng ý thuê của nguyên đơn các thiết bị và thi công để thực hiện công trình “Thi công nạo vét luồng Soài Rạp năm 2018”. Giá trị Hợp đồng là 10.000.000.000 (mười tỷ) đồng cho thời gian thuê và thi công ở hai địa điểm xã V và xã G.
Ngày 26/6/2020, hai bên ký biên bản xác nhận giá trị phương tiện thuê đợt 1 đối với thời gian thuê phương tiện từ ngày 20/3/2020 đến ngày 26/6/2020 là 7.500.000.000 (bảy tỷ năm trăm triệu) đồng. Theo nguyên đơn trình bày thời gian thuê và thi công từ ngày 27/6/2020 đến ngày 14/8/2020 thì bị đơn chưa thanh toán cho nguyên đơn với số tiền là 3.666.666.666 đồng và tiền lãi phát sinh.
Ngày 02/6/2020, bị đơn có Công văn số 04 gửi nguyên đơn về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng số 01 kể từ ngày 08/6/2020.
Ngày 05/6/2020, nguyên đơn có công văn số 32 gửi bị đơn với nội dung thống nhất chấm dứt và thanh lý hợp đồng số 01.
Ngày 26/6/2020, hai bên ký biên bản xác nhận giá trị thuê phương tiện đợt 1 đến ngày 26/6/2020, bị đơn đồng ý thanh toán cho nguyên đơn số tiền 7.500.000.000 (bảy tỷ năm trăm triệu) đồng. Mặc dù hai bên thỏa thuận chấm dứt hợp đồng nhưng thực tế nguyên đơn vẫn tiếp tục thi công tại công trình đến hết ngày 25/7/2020 (có chữ ký xác nhận của hai bên). Như vậy, có căn cứ xác định nguyên đơn vẫn thực hiện công việc như thỏa thuận tại hợp đồng. Do vậy, nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả tiền thuê thiết bị và thi công từ ngày 27/6/2020 đến ngày 25/7/2020 là có cơ sở.
Đối với yêu cầu của nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán tiền thuê thiết bị và thi công từ ngày 26/7/2020 đến ngày 14/8/2020: Nguyên đơn không cung cấp được tài liệu chứng cứ gì chứng minh nên không có cơ sở để chấp nhận.
Do vậy, căn cứ Điều 85 và 306 Luật thương mại 2005 và khoản 2 Điều 515, khoản 3 Điều 518 Bộ luật dân sự 2015 đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn trả tiền thuê thiết bị và thi công còn thiếu từ ngày 27/6/2020 đến ngày 25/7/2020 là 2.223.333.333 (hai tỷ hai trăm hai mươi ba triệu ba trăm ba mươi ba ngàn ba trăm ba mươi ba) đồng và tiền thuê tàu kéo trong thời gian từ 27/6/2020 đến 5/7/2020.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 974/2022/KDTM-ST ngày 30 tháng 11 năm 2022 của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty TNHH K về việc yêu cầu bị đơn Công ty TNHH C phải trả số tiền nợ gốc và lãi là 3.902.739.725 (ba tỷ chín trăm lẻ hai triệu bảy trăm ba mươi chín ngàn bảy trăm hai mươi lăm) đồng. Trong đó:
- Nợ gốc: 3.666.666.666 (ba tỷ sáu trăm sáu mươi sáu triệu sáu trăm sáu mươi sáu ngàn sáu trăm sáu mươi sáu) đồng;
- Nợ lãi phát sinh tạm tính từ ngày 29/3/2022 đến ngày xét xử (ngày 18/11/2022) theo mức lãi suất 10%/năm là 236.073.059 (hai trăm ba mươi sáu triệu không trăm bảy mươi ba ngàn không trăm năm mươi chín) đồng.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 08 tháng 12 năm 2022, nguyên đơn Công ty TNHH K có đơn kháng cáo với nội dung kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm và Viện kiểm sát nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị một phần theo Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 10/QĐ-VKS-KDTM ngày 13 tháng 12 năm 2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Công ty TNHH K giữ nguyên yêu cầu kháng cáo về việc đề nghị cấp phúc thẩm xem xét hủy Bản án sơ thẩm số 974/2022/KDTM-ST ngày 30 tháng 11 năm 2022 của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh. Đại diện bị đơn đề nghị y án sơ thẩm.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh:
Qua kiểm sát vụ án từ khi thụ lý hồ sơ đến thời điểm xét xử thấy rằng Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định về thẩm quyền giải quyết vụ án, xác định đúng quan hệ tranh chấp, xác định tư cách người tham gia tố tụng trong vụ án, tiến hành lập hồ sơ, ra quyết định đưa vụ án ra xét xử và gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu đúng thời hạn, việc cấp và tống đạt các văn bản tố tụng cho người tham gia tố tụng và Viện kiểm sát theo đúng quy định tại Điều 41 Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Về thời gian giải quyết vụ án chưa đảm bảo đúng thời hạn theo quy định tại Điều 179 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Tại phiên tòa hôm nay, phiên tòa tiến hành đúng trình tự pháp luật Tố tụng dân sự.
Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý cũng như tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn, bị đơn, đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 58, Điều 59, Điều 60, Điều 61, Điều 74, Điều 199, Điều 200, Điều, 201 Điều 209 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xác định Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận đã vi phạm thủ tục tố tụng trong việc công khai chứng cứ, do đó một phần kháng cáo của Công ty TNHH K là có cơ sở. Tuy nhiên xét thấy việc vi phạm này không gây ảnh hưởng đến quyền lợi của nguyên đơn nên không có căn cứ để hủy án mà chỉ cần rút kinh nghiệm. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ Khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, chấp nhận một phần Quyết định kháng nghị số 10/QĐ-VKS-KDTM ngày 13/12/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân quận Phú Nhuận và một phần yêu cầu kháng cáo của Công ty TNHH K, xác định Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm thủ tục tiếp nhận và công khai chứng cứ tại phiên tòa cần rút kinh nghiệm. Giữ nguyên phần quyết định của Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 974/2022/KDTM-ST ngày 30/11/2022 của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh.
Sau khi nghe ý kiến của đại diện Viện kiểm sát;
Sau khi thảo luận và nghị án;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về hình thức: Đơn kháng cáo của ông Huỳnh Phú G đại diện theo pháp luật Công ty TNHH K làm trong thời hạn luật định nên được chấp nhận.
[2] Về nội dung:
[2.1] Đại diện hợp pháp và Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty TNHH K xác nhận giữ nguyên yêu cầu kháng cáo về việc đề nghị cấp phúc thẩm xem xét hủy Bản án sơ thẩm số 974/2022/KDTM-ST ngày 30 tháng 11 năm 2022 của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh.
[2.2] Đại diện bị đơn đề nghị y án sơ thẩm.
[3] Xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn về việc Tòa án sơ thẩm có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật: Căn cứ Đơn khởi kiện và tại phiên tòa sơ thẩm, Công ty TNHH K1 yêu cầu Tòa án buộc Công ty TNHH C thanh toán số tiền thuê thiết bị và thi công còn thiếu từ ngày 27/6/2020 đến ngày 25/7/2020 với số tiền 2.223.333.333 đồng và từ ngày 26/7/2020 đến ngày 14/8/2020 với số tiền 1.150.000.000 đồng.
[3.1] Xét, Tại Điều 2 của Bản thỏa thuận hợp đồng ngày 16/6/2020 thể hiện đơn giá và giá trị thỏa thuận về công việc hút phun tại khu vực xã G. Cụ thể đơn vị tính là mét khối là 350.000 m³, khác với đơn vị tính trong hợp đồng và phụ lục hợp đồng số 01 thì đơn vị tính là số tháng. Như vậy, căn cứ để tính việc thuê thiết bị và thi công tại khu vực xã G phải tính đến khối lượng thi công mà hai bên đã thỏa thuận trong Bản thỏa thuận hợp đồng ngày 16/6/2020, chứ không phải là tính thời gian thuê theo đơn vị tính tháng như lần thanh toán đợt 1. Nguyên đơn cho rằng nếu tính theo khối lượng thi công thì nguyên đơn đã thi công với số lượng vượt quá mà hai bên thỏa thuận (350.000 m³). Cụ thể khối lượng hút phun nghiệm thu để làm cơ sở thanh toán được tính là 576.826 : 1,3 = 443.712 m³. Tuy nhiên, cũng chính tại văn bản ngày 02/3/2022 do nguyên đơn phát hành và gửi cho bị đơn lại thể hiện rõ khối lượng mà nguyên đơn thực hiện ở công trình xã G chỉ là 334.611m³ (sau khi đã trừ đi khối lượng còn lại dưới hố trung chuyển là 109.090 m³). Như vậy, căn cứ theo Bản thỏa thuận hợp đồng ngày 16/6/2020 thì khối lượng mà bên nguyên đơn phải thực hiện tại công trường xã G là 350.000 m³, thiết bị thi công tại khu vực xã G phải đạt 15.000 m³/ngày (mục 1.2 của Điều 1 Bản thỏa thuận ngày 16/6/2020). Nguyên đơn cho rằng nguyên đơn đã thực hiện với khối lượng vượt quá thỏa thuận theo hợp đồng là không đúng và cũng không phù hợp với văn bản ngày 02/3/2022 do nguyên đơn phát hành gửi bị đơn.
[3.2] Ngoài ra, tại bảng tổng hợp khối lượng hút phun tính từ ngày 16/4/2020 đến ngày 25/7/2020 (không thể hiện ngày tháng lập bảng), trong tổng khối lượng thi công này thì nguyên đơn cũng không chứng minh được là từ ngày 27/6/2020 đến ngày 25/7/2020 nguyên đơn thi công được khối lượng là bao nhiêu m³. Còn từ ngày 26/7/2020 đến ngày 14/8/2020, nguyên đơn cũng không chứng minh được là đã thi công được khối lượng là bao nhiêu m³. Nguyên đơn cho rằng nội dung tin nhắn trao đổi qua lại với bị đơn để cho rằng nguyên đơn thi công đến ngày 14/8/2020 là chưa đủ căn cứ để chứng minh rằng nguyên đơn thi công đến ngày 14/8/2020 là hoàn tất công việc. Mặt khác, trong lĩnh vực thi công, nghiệm thu công trình, biên bản nghiệm thu là một tài liệu quan trọng để làm căn cứ yêu cầu thanh toán. Tuy nhiên, trong suốt quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn cũng không cung cấp được tài liệu chứng cứ nào chứng minh là nguyên đơn có gửi hồ sơ để yêu cầu bị đơn nghiệm thu công trình. Mặc dù, trong giai đoạn trước ngày 27/6/2020, nguyên đơn đã từng ký biên bản xác định thời gian thuê để làm căn cứ xác định nghĩa vụ thanh toán.
[3.3] Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cũng đã tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ đối với hiện trường thi công tại xã G, huyện G, tỉnh Tiền Giang. Tại hiện trường thực tế các bên cũng xác nhận không thể tiến hành xác định được khối lượng thi công mà nguyên đơn đã thi công. Tuy nhiên, đối với đề nghị của Luật sư Lê Song T1 về việc triệu tập Ban Q xây dựng các công trình giao thông vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Hội đồng xét xử nhận thấy: Quan hệ hợp đồng giữa nguyên đơn và bị đơn, quan hệ hợp đồng giữa bị đơn và Ban Q xây dựng các công trình giao thông là quan hệ độc lập, không liên quan đến quyền và nghĩa vụ với nhau. Ngoài ra, nguyên đơn và bị đơn cũng không có yêu cầu tranh chấp gì với Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng các công trình giao thông trong vụ án này. Tuy nhiên, để đảm bảo vụ án được xét xử khách quan và công bằng, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã có văn bản số 8973/TATP ngày 10/7/2023 về việc xác minh thông tin dự án thi công nạo vét luồng Soài Rạp toàn tuyến, dự án duy tu, nạo vét luồng Soài Rạp năm 2018 xác minh với Ban Q xây dựng các công trình giao thông về những nội dung mà ông Cao Thế T đề nghị tại văn bản ngày 22/8/2023 và Luật sư Lê Song T1 kiến nghị tại công văn số 22.08/2023/VB-KN ngày 22/8/2023, qua xem xét các tài liệu, chứng cứ trên, Hội đồng xét xử nhận thấy không cần thiết phải đưa B Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng các công trình giao thông tham gia tố tụng. Hơn nữa, tại Công văn số 4419/BQLDAGT-VĐ3 ngày 20/7/2023 cả Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng các công trình giao thông xác định: “Hợp đồng giao kết giữa Công ty TNHH C và Công ty TNHH K, Ban Giao thông không được nhận từ Liên doanh nhà thầu. Do đó, nội dung tranh chấp giữa hai đơn vị nêu trên, Ban Giao thông không có liên quan... Trong đó 02 phương tiện tàu hút SG.7895 và tàu hút SG. 6697, là trực tiếp tham gia thi công, nhưng hiện tại hồ sơ thể hiện khối lượng và thời gian thực hiện (các báo cáo của Công ty C về tổng khối lượng và thời gian mà Công ty K thực hiện cho công trình nạo vét luồng rạch Soài Rạp toàn tuyến, dự án duy tu, nạo vét luồng Soài Rạp năm 2018) không lưu trữ tại Ban quản lý dự án....”. Ngoài ra, tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn cung cấp cho Hội đồng xét xử Thông báo thụ lý số 256/TB-TLVA ngày 14/4/2023 của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận đang thụ lý vụ án “Tranh chấp Hợp đồng dịch vụ” và cho rằng nguyên đơn đang tranh chấp với bị đơn về khối lượng công trình trong vụ án này. Theo nguyên đơn do bị đơn không thống nhất thanh toán theo thời gian ở vụ kiện này nên nguyên đơn đã tiến hành khởi kiện yêu cầu tính về khối lượng. Xét thấy, đây là sự thỏa thuận của các bên trên cơ sở hợp tác kinh doanh trong quá trình thực hiện hợp đồng nhưng đến khi quyết toán lại không có sự thống nhất, quyền lợi của nguyên đơn sẽ được đảm bảo nếu nguyên đơn chứng minh được yêu cầu khởi kiện của mình tại cấp sơ thẩm ở vụ án trên. Do đó, xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không có cơ sở để chấp nhận.
[4] Xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn về việc Tòa án sơ thẩm thu thập chứng cứ và chứng minh không đúng quy định pháp luật và vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng của Bộ luật tố tụng dân sự:
[4.1] Xét thấy, ngày 18/11/2022, cấp sơ thẩm đã đưa vụ án ra xét xử theo quy định, tại phiên tòa ngày 18/11/2022 thể hiện các đương sự không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ gì (bút lục từ 303-311). Ngày 25/11/2022 phiên tòa tiếp tục, tại bút lục số 303 Biên bản phiên tòa ghi nhận: “Đại diện bị đơn xin nộp tài liệu chứng cứ bổ sung”. Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn và Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn xác nhận: Có cung cấp tài liệu cho Hội đồng xét xử vào phiên xử sơ thẩm ngày 25/11/2022; Bị đơn và luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn cũng xác nhận: Bị đơn có cung cấp tài liệu vào ngày 18/11/2022. Tuy nhiên, căn cứ vào bút lục từ 296 đến 311 Biên bản phiên tòa của cấp sơ thẩm không thể hiện đúng như lời trình bày của các đương sự. Việc cấp sơ thẩm không công bố tài liệu, chứng cứ mới do các đương sự nộp bổ sung tại phiên tòa, cũng như đại diện Viện kiểm sát chưa được tiếp cận tài liệu chứng cứ này để làm căn cứ giải quyết vụ án là vi phạm thủ tục tố tụng. Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân quận Phú Nhuận và kháng cáo của nguyên đơn cho rằng Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận đã vi phạm khoản 1 Điều 109 Bộ luật Tố tụng dân sự là có cơ sở.
[4.2] Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn ngoài việc trình bày cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn do Tòa án cấp sơ thẩm thu thập chứng cứ và chứng minh không đúng quy định pháp luật nhưng nguyên đơn cũng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình như nhận định tại Mục [3] ở trên. Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận vi phạm thủ tục tố tụng trong việc công khai chứng cứ là có cơ sở. Tuy nhiên, xét thấy tài liệu chứng cứ này cả nguyên đơn và bị đơn đều có và đều cung cấp cho cấp sơ thẩm tại phiên tòa. Tài liệu chứng cứ này cũng được cấp sơ thẩm đánh giá, xem xét đến yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn trước khi tuyên án và ban hành bản án. Do đó, việc cấp sơ thẩm không công bố tài liệu chứng cứ này không gây ảnh hưởng đến quyền lợi của nguyên đơn nên không có căn cứ để hủy án mà chỉ cần xét để cấp sơ thẩm rút kinh nghiệm.
[4.3] Xét thấy, Công ty TNHH K yêu cầu Tòa án buộc Công ty TNHH C thanh toán số tiền thuê thiết bị và thi công còn thiếu từ ngày 27/6/2020 đến ngày 25/7/2020 với số tiền 2.223.333.333 đồng và từ ngày 26/7/2020 đến ngày 14/8/2020 với số tiền 1.150.000.000 đồng, nguyên đơn và bị đơn không tranh chấp các vấn đề khác liên quan đến Ban Q công trình giao thông nên cấp sơ thẩm không đưa Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng các công trình giao thông vào tham gia tố tụng là có cơ sở.
[5] Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận một phần Quyết định kháng nghị số 10/QĐ-VKS-KDTM ngày 13/12/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân quận Phú Nhuận và một phần yêu cầu kháng cáo của Công ty TNHH K, xác định Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm thủ tục tiếp nhận và công khai chứng cứ tại phiên tòa cần rút kinh nghiệm. Giữ nguyên phần quyết định của Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 974/2022/KDTM-ST ngày 30/11/2022 của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Giữ nguyên án phí dân sự sơ thẩm.
[7] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do sửa bản án sơ thẩm nên người kháng cáo không chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Từ những phân tích trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng:
- Khoản 1 Điều 308, Điều 313 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí tòa án:
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần Quyết định kháng nghị số 10/QĐ-VKS-KDTM ngày 13/12/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân quận Phú Nhuận và một phần yêu cầu kháng cáo của Công ty TNHH K. Giữ nguyên phần quyết định của Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 974/2022/KDTM-ST ngày 30/11/2022 của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty TNHH K về việc yêu cầu bị đơn Công ty TNHH C phải trả số tiền nợ gốc và lãi là 3.902.739.725 (ba tỷ chín trăm lẻ hai triệu bảy trăm ba mươi chín ngàn bảy trăm hai mươi lăm) đồng. Trong đó:
- Nợ gốc: 3.666.666.666 (ba tỷ sáu trăm sáu mươi sáu triệu sáu trăm sáu mươi sáu ngàn sáu trăm sáu mươi sáu) đồng;
- Nợ lãi phát sinh tạm tính từ ngày 29/3/2022 đến ngày xét xử (ngày 18/11/2022) theo mức lãi suất 10%/năm là 236.073.059 (hai trăm ba mươi sáu triệu không trăm bảy mươi ba ngàn không trăm năm mươi chín) đồng.
3. Về án phí và chi phí tố tụng khác:
3.1. Về án phí: Công ty TNHH K phải chịu toàn bộ án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm là 110.054.795 (một trăm mười triệu không trăm năm mươi bốn ngàn bảy trăm chín mươi lăm) đồng nhưng được cấn trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 50.500.000 (năm mươi triệu năm trăm ngàn) đồng theo biên lai thu tiền số 0029327 ngày 06/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh và số tiền 8.476.027 (tám triệu bốn trăm bảy mươi sáu ngàn không trăm hai mươi bảy) đồng theo Biên lai thu tiền số 0029418 ngày 11/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh. Công ty TNHH K còn phải nộp thêm số tiền là 51.078.768 (năm mươi mốt triệu không trăm bảy mươi tám ngàn bảy trăm sáu mươi tám) đồng.
- Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: 5.000.000 (năm triệu) đồng. Công ty TNHH K phải chịu. Công ty TNHH K đã đóng đủ chi phí xem xét thẩm định tại chỗ.
3.2. Án phí dân sự phúc thẩm: Công ty TNHH K không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Công ty TNHH K được nhận lại số tiền là 2.000.000 (Hai triệu) đồng đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số: AA/2021/0029992 ngày 09/12/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh.
Việc thi hành được thực hiện tại Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng thuê thiết bị và thi công số 911/2023/KDTM-PT
Số hiệu: | 911/2023/KDTM-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 31/08/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về