TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 151/2024/DS-ST NGÀY 26/08/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG THUÊ KI ỐT
Ngày 26 tháng 8 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Long Biên, Thành phố Hà Nội xét xử công khai sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 54/2024/TLST- DS ngày 02/4/2024 về việc "Tranh chấp hợp đồng thuê Ki ốt" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2024/QĐXXST-DS ngày 08 tháng 7 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 73/2024/QĐST-DS ngày 31 tháng 7 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Công ty TNHH một thành viên N.
Địa chỉ: Số 1 phố N, phường Đ, quận H, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Thiều Hữu H – Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Chiến T (Có mặt).
(Văn bản ủy quyền số 235/UQ-HUDS ngày 22/4/2024) 2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị T Địa chỉ: Số 26 ngõ 548 đường N, quận L, Thành phố Hà Nội (Vắng mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội Địa chỉ : Số 12 phố Lê Lai, quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội (Vắng mặt).
Tổng công ty đầu tư phát triển N;
Địa chỉ: Toà nhà HUD Tower, số 37 đường L, phường N, quận T, Thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Đỗ Hoài Đ – Tổng giám đốc.
Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Trịnh Phú C (Có mặt).
(Văn bản uỷ quyền số 1937/UQ-HUD ngày 21/6/2024)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung, bản tự khai và các lời khai tiếp theo, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Tổng công ty đầu tư phát triển N được giao là chủ đầu tư xây dựng khu đô thị V tại Quyết định số 3819/QĐ-UB ngày 18/6/2004 của Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội.
Công ty TNHH một thành viên dịch vụ N được giao quản lý, khai thác tài sản Nhà nước là các Ki ốt tầng 1 các chung cư tại khu đô thị V.
Ngày 01/01/2015 Công ty N ký hợp đồng cho thuê Ki ốt số 21/15/HĐTKÔ với bà Nguyễn Thị T. Theo hợp đồng, Công ty N cho bà T thuê Ki ốt số 6, nhà chung cư K1, khu đô thị V, quận L, Thành phố Hà Nội. Diện tích thuê là 40,02m2; Thời hạn thuê từ ngày 01/01/2015 đến hết ngày 31/12/2016.
Trong thời gian thực hiện hợp đồng, theo Kết luận số 811/KL-TTCP ngày 13/4/2015, Thanh tra Chính Phủ yêu cầu Tổng Công ty N và các Công ty thành viên có kế hoạch cụ thể bàn giao tầng 1 các chung cư thuộc diện phải bàn giao cho Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội.
Ngày 12/8/2015 Tổng Công ty N ra Nghị quyết số 565/NQ-HĐTV yêu cầu Công ty N phối hợp bàn giao tầng 1 các chung cư cho UBND Thành phố Hà Nội.
Thực hiện chỉ đạo, từ ngày 10/9/2015 Công ty N không ký hợp đồng với khách hàng để chuẩn bị công tác bàn giao mặt bằng. Ngày 01/6/2016 Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội có văn bản số 3232/UBND-KT yêu cầu Tổng công ty N chấm dứt việc cho thuê và nộp nghĩa vụ tài chính. Theo đó Công ty N dừng thu tiền thuê của khách hàng từ thời điểm 01/6/2016.
Sau ngày 31/12/2016 hai bên không ký hợp đồng mới tuy nhiên bà T vẫn tiếp tục sử dụng trái phép mặt bằng Ki ốt. Công ty N đã nhiều lần yêu cầu bà T thanh toán tiền thuê, bàn giao mặt bằng nhưng bà T không thực hiện. Ngày 31/5/2023, bà Thanh tự nguyện bàn giao mặt bằng Ki ốt.
HUDS yêu cầu Toà án giải quyết:
- Buộc bà Nguyễn Thị T phải trả lại mặt bằng số 6, tầng 1, chung cư K1 Khu đô thị V;
- Bồi thường cho Công ty N số tiền sử dụng trái phép Ki ốt số 6, tầng 1, chung cư K1 Khu đô thị V tạm tính từ ngày 01/7/2016 đến ngày 31/7/2020 là 329.522.214 đồng;
- Số tiền bồi thường sẽ tính tiếp kể từ ngày 01/8/2020 cho đến ngày xét xử cộng với lãi suất chậm trả thi hành án (Nếu có).
Tại bản tự khai, người đại diện theo uỷ quyền của Tổng công ty N trình bày: Hợp đồng thuê Ki ốt đã hết hạn, các bên không ký hợp đồng mới nhưng bị đơn vẫn sử dụng trái phép Ki ốt. Nguyên đơn khởi kiện là có cơ sở, đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa:
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xin rút yêu cầu buộc bà T phải thanh toán số tiền lãi chậm trả trên số tiền phải thanh toán do sử dụng trái phép mặt bằng Ki ốt từ ngày 01/7/2016 đến ngày 30/5/2023 và yêu cầu đòi mặt bằng Ki ốt.
Đề nghị Toà án buộc bà T phải trả số tiền tính từ ngày 01/07/2016 đến ngày 30/5/2023 là 364.037.938 đồng.
Đại diện theo uỷ quyền của Tông công ty N vẫn giữ nguyên ý kiến như đã trình bày trong quá trình giải quyết vụ án.
Bị đơn vắng mặt lần thứ hai tại phiên toà.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án đảm bảo thẩm quyền và xác định đúng quan hệ tranh chấp.
Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn số tiền sử dụng Ki ốt từ ngày 01/7/2016 ngày 30/5/2023 là 364.037.938 đồng.
Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của nguyên đơn đã rút tại phiên toà. Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy:
[1] Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp hợp đồng thuê Ki ốt được quy định tại Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn và nơi thực hiện hợp đồng đều có địa chỉ tại quận Long Biên, Thành phố Hà Nội nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Long Biên.
Tòa án đã tiến hành tống đạt, niêm yết các văn bản tố tụng đối với bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn xin vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về yêu cầu thanh toán số tiền thuê Ki ốt và bồi thường thiệt hại tương ứng với số tiền sử dụng Ki ốt:
Hợp đồng thuê Ki ốt đã hết hạn và hai bên không ký hợp đồng thuê mới nhưng bị đơn vẫn tiếp tục sử dụng mà không trả lại tài sản thuê đã gây thiệt hại cho nguyên đơn do không bàn giao được mặt bằng cho Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội để kinh doanh khai thác, do đó cần buộc bị đơn phải thanh toán số tiền thuê Ki ốt và bồi thường thiệt hại tương ứng với tiền thuê mặt bằng đến ngày bàn giao mặt bằng.
[3] Về diện tích Ki ốt: Theo hợp đồng, diện tích thuê là 40,02m2, sau đó Công ty N đã đo đạc lại và xác định diện tích Ki ốt là 39,53m2 để làm cơ sở tính tiền thuê. Việc điều chỉnh giảm diện tích thuê có lợi cho bị đơn nên ghi nhận sự tự nguyện của Công ty N.
[4] Về đơn giá để truy thu tiền thuê: Công ty N căn cứ vào đơn giá tại Phụ lục kèm theo văn bản số 462/UBND-ĐT ngày 17/02/2021 của UBND thành phố Hà Nội để làm cơ sở truy thu tiền thuê kiốt, theo đó giá thuê kiốt là 141.359 đồng/m2/tháng, đơn giá này đã được Uỷ ban nhân dân Thành phố tham khảo trên cơ sở Chứng thư số 72201/CT-VVGC/BAN5 ngày 22/7/2020 của Công ty Cổ phần Định giá và Dịch vụ tài chính Việt Nam. Do vậy, Công ty N thực hiện việc áp giá truy thu theo văn bản số 462/UBND-ĐT ngày 17/02/2021 của Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội là có cơ sở.
[5] Về số tiền truy thu: Công ty N yêu cầu Toà án buộc bà T phải trả số tiền tính từ ngày 01/7/2016 đến ngày 30/5/2023 là 364.037.938 đồng là có căn cứ nên được chấp nhận.
Để đảm bảo quyền lợi của người được thi hành án, cần áp dụng Điều 357, 468 Bộ luật dân sự năm 2015 để tính lãi suất trong thời gian chậm thi hành án.
[6] Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trên số tiền phải thanh toán.
Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 146, 147, 227, 228, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 305, 401, 402, 490 Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 357, 468 Bộ luật dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.
Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH một thành viên dịch vụ N đối với bà Nguyễn Thị T.
Buộc bà Nguyễn Thị T phải thanh toán tiền sử dụng Ki ốt số 6, nhà chung cư K1, khu đô thị V, quận Long Biên, Thành phố Hà Nội từ ngày 01/7/2016 đến ngày 30/5/2023 cho Công ty TNHH một thành viên dịch vụ N với số tiền là 364.037.938 (Ba trăm sáu mươi bốn triệu ba mươi bảy ngàn chín trăm ba mươi tám) đồng.
Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu nguyên đơn đã rút tại phiên toà.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.
Bà Nguyễn Thị T phải chịu 18.201.896 (Mười tám triệu hai trăm lẻ một ngàn tám trăm chín mươi sáu) đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả Công ty TNHH một thành viên dịch vụ N số tiền 8.238.000 (Tám triệu hai trăm ba mươi tám ngàn) đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 18589 ngày 01/4/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Long Biên.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Đương sự có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Đương sự vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tranh chấp hợp đồng thuê Ki ốt số 151/2024/DS-ST
Số hiệu: | 151/2024/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 26/08/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về