Bản án về tranh chấp hợp đồng thẻ tín dụng số 68/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẨM LỆ - THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 68/2022/DS-ST NGÀY 18/05/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG THẺ TÍN DỤNG

Ngày 18 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 113/2021/TLST- DS ngày 02 tháng 11 năm 2021 về “Tranh chấp hợp đồng thẻ tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2022/QĐXX-ST ngày 05 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 41/2022/QĐST-DS ngày 29 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP S Người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn: Bà Nguyễn Đức Thạch D- Chức vụ: Tổng giám đốc Ngân hàng TMCP S Bà Nguyễn Đức Thạch D ủy quyền cho ông: Nguyễn Thế C- Chức vụ: Giám đốc chi nhánh Sông Hàn (Theo Văn ủy quyền số 3977/2020/QĐ-NS ngày 28 tháng 12 năm 2020. Nguyễn Thế C ủy quyền cho ông Trương Đình V- Chức vụ: Chuyên viên quản lý nợ - Ngân hàng TMCP S- Chi nhánh Sông Hàn (Theo Văn bản ủy quyền số 179/2020/GUQ- CNSH ngày 19 tháng 4 năm 2021 và Văn bản ủy quyền số 591/2021/GUQ-CNSH ngày 31 tháng 12 năm 2021) Địa chỉ liên hệ: Số 240 Ng, phường H, quận H, thành phố Đà Nẵng.

Bị đơn: Ông Nguyễn Xuân Kh, sinh năm: 1988 Địa chỉ: 27 L, phường H, quận C, Đà Nẵng. (Ông V có mặt, ông Kh vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 14 tháng 10 năm 2021 của Ngân hàng TMCP Svà quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Trương Đình Vtrình bày:

Vào ngày 09 tháng 7 năm 2018 Ngân hàng TMCP S(Sacombank) và Ông Nguyễn Xuân Kh đã ký kết hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng (bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và Bản điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Sacombank - các tài liệu này được gọi chung là Hợp đồng).

Căn cứ vào thu nhập của ông Khôi, Sacombank đã đồng ý cấp thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng là 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng), với mục đích tiêu dùng cá nhân. Sau khi được cấp thẻ tín dụng ông Khđã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 412.959.839 đồng, lãi suất trong hạn 2,6%/tháng.

Trong quá trình sử dụng thẻ, từ ngày kích hoạt thẻ cho đến nay ông Khđã thanh toán cho Ngân Hàng số tiền là 399.400.000 đồng. (Thứ tự thanh toán căn cứ theo Điều 20 của bản điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng). Qua nhiều lần làm việc, nhắc nhở nhưng ông Khvẫn không có thiện chí trả nợ. Do ông Khvi phạm nghĩa vụ thanh toán (Điều 2 của Bản điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng) nên ngày 23 tháng 5 năm 2021 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn theo quy định tại Điều 23 của bản điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng). Tính đến ngày 18 tháng 5 năm 2022 ông Khcòn nợ Ngân hàng tổng cộng số tiền: 33.846.775 đồng. Trong đó nợ gốc 23.035.908 đồng và lãi quá hạn 10.810.867 đồng.

Mặc dù Ngân hàng đã nhiều lần yêu cầu ông Khcó trách nhiệm thanh toán, tuy nhiên ông Khvẫn chưa thanh toán khoản nợ vay quá hạn cho Ngân hàng. Vì vậy ông Khđã vi phạm các điều khoản đã quy định tại hợp đồng đã ký kết.

Nay Ngân hàng TMCP Syêu cầu ông Khphải có nghĩa vụ thanh toán toàn bộ nợ gốc và lãi phát sinh tạm tính đến 18 tháng 5 năm 2022 tổng cộng số tiền: 33.846.775 đồng. Trong đó nợ gốc 23.035.908 đồng và lãi quá hạn 10.810.867 đồng và lãi tiếp tục được tính kể từ ngày 19 tháng 5 năm 2022 theo mức lãi suất hai bên đã ký tại giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 09 tháng 7 năm 2018 cho đến khi ông Khthanh toán xong các khoản nợ cho Ngân hàng.

Trong suốt quá trình tố tụng cũng như tại phiên tòa hôm nay, Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng đã nhiều lần triệu tập hợp lệ bị đơn Ông Nguyễn Xuân Kh nhưng Ông Nguyễn Xuân Kh vắng mặt không có lý do và không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Snên không có bản tự khai cũng như lời trình bày tại phiên tòa hôm nay.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Bị đơn Ông Nguyễn Xuân Kh đã được tống đạt hợp lệ đến phiên tòa xét xử lần thứ hai nhưng Ông Nguyễn Xuân Kh vẫn vắng mặt. Do đó, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt Ông Nguyễn Xuân Kh.

[2] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa người đại diện của nguyên đơn Ngân hàng TMCP Syêu cầu Ông Nguyễn Xuân Kh phải có nghĩa vụ thanh toán toàn bộ số tiền nợ gốc và lãi phát sinh tính đến ngày 18 tháng 5 năm 2022 tổng cộng số tiền: 33.846.775 đồng. Trong đó nợ gốc 23.035.908 đồng và lãi quá hạn 10.810.867 đồng và lãi tiếp tục được tính kể từ ngày 19 tháng 5 năm 2022 theo mức lãi suất hai bên đã ký tại giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 09 tháng 7 năm 2018 cho đến khi ông Khthanh toán xong các khoản nợ cho Ngân hàng.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì thấy: Hợp đồng tín dụng sử dụng thẻ tín dụng giữa Ngân hàng TMCP Svà Ông Nguyễn Xuân Kh có hình thức và nội dung phù hợp với các điều 401,402,405 của bộ luật dân sự năm 2015 nên có hiệu lực đối với các bên tham gia giao dịch.

Trong quá trình sử dụng thẻ, từ ngày kích hoạt thẻ cho đến nay ông Khđã thanh toán cho Ngân Hàng số tiền là 399.400.000 đồng. (Thứ tự thanh toán căn cứ theo Điều 20 của bản điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng). Ngân hàng đã nhiều lần làm việc, nhắc nhở nhưng ông Khvẫn không có thiện chí trả nợ. Do ông Khvi phạm nghĩa vụ thanh toán đã quy định tại Điều 2 của Bản điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng nên ngày 23/5/2021 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn theo quy định tại Điều 23 của bản điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng. Vì vậy, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông Khtrả số tiền nêu trên là có căn cứ phù hợp với các điều 463, 466 Bộ luật dân sự năm 2015.

Hội đồng xét xử xét thấy: Để đảm bảo quyền lợi chính đáng cho Ngân hàng trong việc thu hồi nợ. Hội đồng xét xử xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng, buộc ông Khphải có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng tính đến ngày 18 tháng 5 năm 2022 tổng cộng số tiền: 33.846.775 đồng. Trong đó nợ gốc 23.035.908 đồng và lãi quá hạn 10.810.867 đồng và lãi tiếp tục được tính kể từ ngày 19 tháng 5 năm 2022 theo mức lãi suất hai bên đã ký tại giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 09 tháng 7 năm 2018 cho đến khi ông Khthanh toán xong các khoản nợ cho Ngân hàng.

[4] Về án phí DSST: Án phí dân sự sơ thẩm ông Khphải chịu theo quy định của pháp luật là 1.692.338 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, các điều 463, 466 Bộ luật dân sự năm 2015; Khoản 3 Điều 26, Điều 186, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 266, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về lệ phí, án phí Tòa án.

Tuyên bố: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài gòn Thương Tín đối với Ông Nguyễn Xuân Kh về việc “Tranh chấp hợp đồng thẻ tín dụng”.

Xử:

1. Buộc Ông Nguyễn Xuân Kh phải có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài gòn Thương Tín số tiền là: 33.846.775 đồng (Ba mươi ba triệu tám trăm bốn mươi sáu ngàn bảy trăm bảy mươi lăm đồng). Trong đó nợ gốc 23.035.908 đồng và lãi quá hạn 10.810.867 đồng (lãi tính đến ngày 18/5/2022) 2. Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (ngày 19/5/2022) Ông Nguyễn Xuân Kh còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này.Trường hợp trong hợp đồng thẻ tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Xuân Kh có nghĩa vụ nộp là 1.692.338 đồng (Một triệu sáu trăm chín mươi hai ngàn ba trăm ba mươi tám đồng) 4. Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài gòn Thương Tín không phải chịu án phí. Hoàn trả tiền tạm ứng án phí cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài gòn Thương Tín số tiền 680.000 đồng đã nộp tại biên lai thu số 0001579 ngày 01 tháng 11 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự quận Cẩm Lệ.

5. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp Bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1266
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng thẻ tín dụng số 68/2022/DS-ST

Số hiệu:68/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cẩm Lệ - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 18/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;