Bản án về tranh chấp hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng số 57/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

 BẢN ÁN 57/2021/DS-ST NGÀY 06/05/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG SỬ DỤNG THẺ TÍN DỤNG

Ngày 06 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 790/2020/TLST-DS ngày 23 tháng 12 năm 2020 về tranh chấp “hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2021/QĐXX-DS ngày 23/3/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 53/2021/QĐST-DS ngày 08/4/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần S. Địa chỉ: Lầu 8, 266-268 N, Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Huỳnh Thanh M; chức vụ: Phó phòng giao dịch Đ là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (Ngân hàng Thương mại cổ phần S, văn bản ủy quyền ngày 06/01/2021, có mặt).

2. Bị đơn: Ông Lý Minh T, sinh năm 1990.

Địa chỉ: Khu vực 4, thị trấn Đ1, huyện Đ, tỉnh Long An (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn ông Huỳnh Thanh M trình bày:

Ngày 30/9/2017, ông Lý Minh T có ký với Ngân hàng Thương mại cổ phần S (sau đây gọi tắt là Ngân hàng S) hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng (bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng; Bản Điều khoản và Điều kiện phát hành, sử dụng thẻ tín dụng, sau đây gọi tắt là hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng). Căn cứ thu nhập của ông T, Ngân hàng S đã đồng ý cấp thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng là 20.000.000 đồng, với mục đích tiêu dùng cá nhân; loại thẻ tín dụng nội địa; số thẻ 970403-6344; lãi suất được tính trên từng giao dịch phát sinh theo từng ngày và theo lãi suất Ngân hàng áp dụng vào từng thời điểm khác nhau.

Sau khi được cấp Thẻ tín dụng, ông T đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền 18.000.000 đồng, đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền 7.445.247 đồng (chi tiết các lần thanh toán trong bảng sao kê tóm tắt đình kèm). Thứ tự thanh toán áp dụng theo Điều 20 của Bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng.

Do ông T vi phạm nghĩa vụ thanh toán quy định tại Điều 2 của Bản Điều khoản và Điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng nên ngày 05/12/2018, Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ tín dụng của ông T và tiến hành thu hồi toàn bộ số nợ bằng nhiều hình thức khác nhau nhưng ông T vẫn không có thiện chí trả nợ. Ngân hàng đã chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn dựa trên quy định tại Điều 23 của Bản Điều khoản và Điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng trên số tiền gốc 15.062.944 đồng với lãi suất 150% lãi suất được công bố và áp dụng tại thời điểm hiện tại là 1.875% (1.25% x 150%). Ngày 05/10/2020, ông T có trả cho Ngân hàng số tiền 1.000.000 đồng, được trừ vào tiền gốc nên số tiền nợ gốc Ngân hàng tính lãi quá hạn và làm căn cứ khởi kiện từ ngày 05/10/2020 là 14.062.944 đồng.

Nay Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông T phải trả cho Ngân hàng số tiền tính đến ngày 06/5/2021 là 22.059.176 đồng, trong đó nợ gốc là 14.062.944 đồng; nợ lãi là 7.198.194 đồng, yêu cầu hoàn trả một lần toàn bộ số tiền. Ngoài ra, ông T còn phải thanh toán khoản lãi phát sinh cho đến khi trả dứt nợ vay theo lãi suất quy định tại Hợp đồng.

Bị đơn ông Lê Minh T trình bày trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án và tại phiên tòa:

Ông đã nhận được Thông báo thụ lý vụ án số 790 ngày 23/12/2020 của Tòa án. Ông thống nhất vào ngày 30/9/2017, ông có ký với Ngân hàng S hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng (bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng; Bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, sau đây goị tắt là hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng) có hạn mức 20.000.000 đồng, lãi suất tại thời điểm cấp thẻ là 1.25%/tháng. Sau khi được cấp thẻ, ông đã thực hiện các giao dịch với số tiền 18.000.000 đồng, thanh toán cho Ngân hàng 7.445.247 đồng. Ông thống nhất với số tiền Ngân hàng khởi kiện ông tại Tòa án và đồng ý hoàn trả cho Ngân hàng nhưng xin được trả trong khoảng thời gian từ 10 đến 12 tháng, từ 1.000.000 đồng – 1.500.000 đồng/tháng cho đến hết số tiền gốc và xin Ngân hàng cho ông được giảm tiền lãi vì hoàn cảnh ông rất khó khăn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở nhận định như sau:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền: Ngân hàng S khởi kiện ông Lý Minh T phải có trách nhiệm thanh toán số nợ do sử dụng thẻ tín dụng theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và Bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng được Ngân hàng phê duyệt ngày 30/9/2017 nên Tòa án xác định quan hệ pháp luật tố tụng là “tranh chấp hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng”, ông T có địa chỉ cư trú tại thị trấn Đ1, huyện Đ, tỉnh Long An, nên căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa.

[2] Về thủ tục tố tụng: Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn ông Huỳnh Thanh M có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải, căn cứ vào Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án trên thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được. Tòa án chỉ tiến hành công khai chứng cứ.

[3] Về nội dung:

Xét Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng; Bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng S: Về bản chất, đây là hợp đồng vay tài sản. Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng thỏa mãn các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 và quy định của Luật các tổ chức tín dụng nên có hiệu lực pháp luật làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên tham gia giao dịch.

Xét yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng về việc yêu cầu ông T phải thanh toán số tiền nợ gốc và lãi phát sinh theo hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng đã ký kết với tổng số tiền tính đến ngày 06/5/2021 là 22.509.176 đồng, trong đó: Nợ gốc là: 14.062.944 đồng, nợ lãi quá hạn là: 8.446.232 đồng.

Theo thỏa thuận tại Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và Bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng ngày 30/9/2017. Ngân hàng đã cấp cho ông T thẻ tín dụng với hạn mức là 20.000.000 đồng. Sau khi được cấp thẻ tín dụng, ông T đã thực hiện các giao dịch với số tiền 18.000.000 đồng, đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền 7.445.247 đồng. Sau đó, ông T ngưng không thanh toán nữa mặc dù đã được Ngân hàng nhắc nhở nhiều lần. Như vậy, ông T đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán quy định tại Điều 2 của Bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng ngày 30/9/2017 của Ngân hàng. Ngày 05/12/2018, Ngân hàng chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ quá hạn bao gồm tiền gốc 14.699.090 đồng; phí trễ hạn 173.619 đồng; lãi: 190.235 đồng; tổng: 15.062.944 đồng sang nợ quá hạn là phù hợp với quy định tại Điều 23 của Bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng. Ngày 05/10/2020, ông T có trả cho Ngân hàng 1.000.000 đồng tiền gốc nên lãi suất quá hạn từ ngày 05/10/2020 được tính trên số tiền nợ gốc là 14.062.944 đồng áp dụng theo mức lãi suất quá hạn là 1.875%/tháng (150% của lãi suất được công bố và áp dụng tại thời điểm hiện tại).

Xét quan hệ pháp luật dân sự giữa các bên là hoàn toàn tự nguyện, không trái đạo đức xã hội và phù hợp với quy định tại Điều 463 Bộ luật dân sự và Điều 91 Luật tổ chức tín dụng. Vì vậy quyền và nghĩa vụ của các bên được pháp luật bảo vệ. Bị đơn đã vi phạm hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng, không thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ cho Ngân hàng thì phải có nghĩa vụ trả nợ theo quy định tại Điều 463 Bộ luật dân sự.

Xét yêu cầu trả lãi sau ngày tòa xét xử sơ thẩm: Căn cứ khoản 1, 2 Điều 13, khoản 2 Điều 14 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 và Án lệ số 08/2016/AL được Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao thông qua ngày 17/10/2016, yêu cầu của nguyên đơn áp dụng tính lãi theo thỏa thuận tại hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng sau ngày xét xử sơ thẩm là đúng quy định pháp luật nên được chấp nhận.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử quyết định chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc ông Lý Minh T phải thanh toán cho Ngân hàng số tiền nợ tính đến ngày 06/5/2021 là 22.509.176 đồng, trong đó: Nợ gốc là: 14.062.944 đồng, nợ lãi quá hạn là: 8.446.232 đồng.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do toàn bộ yêu cầu của Ngân hàng được chấp nhận nên bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 266, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 277, Điều 463, khoản 1 Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 91, 95, 98 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Quyết định số 2868/QĐ-NHNN ngày 29/11/2010; Điều 11 của Quy chế phát hành, sử dụng, thanh toán thẻ ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định số 371/1999/QĐ-NHNN1 ngày 19/10/1999 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước; Thông tư số 19/2016/TT- NHNN ngày 30/6/2016 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về hoạt động thẻ Ngân hàng; Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 và Án lệ số 08/2016/AL được Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao thông qua ngày 17/10/2016.

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần S về việc “tranh chấp hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng” đối với ông Lý Minh T.

Buộc ông Lý Minh T phải có trách nhiệm trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần S số tiền 22.509.176 đồng, trong đó: Nợ gốc là: 14.062.944 đồng, nợ lãi quá hạn là: 8.446.232 đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, ông Lý Minh T còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi phát sinh trên số nợ gốc theo mức lãi suất thỏa thuận quy định tại Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và Bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng ngày 30/9/2017 cho đến khi thanh toán xong hết nợ.

Về án phí:

Ông Lý Minh T phải chịu 1.125.459 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần S 532.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí lệ phí tòa án 0007183 ngày 23/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hòa.

Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 9 của Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

353
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng số 57/2021/DS-ST

Số hiệu:57/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 06/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;