TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 01/2024/DS-ST NGÀY 04/01/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG SỬ DỤNG THẺ TÍN DỤNG
Ngày 04 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, tiến hành xét xử sơ thẩm, công khai vụ án dân sự thụ lý số 138/2023/TLST-DS ngày 15/11/2023, về việc “Tranh chấp hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 110/2023/QĐXXST-DS ngày 18 tháng 12 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP S; Trụ sở: Lầu 8, 266 - 268 N, Phường 8, Quận 3, thành phố H; Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Đức Thạch D - Tổng giám đốc; Người đại diện theo ủy quyền: Ông Tống Lê M - Trưởng PGD H (Quyết định ủy quyền số 3272/2022/QĐ - PL ngày 26/12/2022); Người được ủy quyền lại: Bà Tạ Thị Thanh H - Chuyên viên tư vấn PGD H (Giấy ủy quyền số 197/GUQ - PGDHBo ngày 12/7/2023).
(Bà H có mặt)
- Bị đơn: Bà Nguyễn Tố Q, sinh năm 1973; Nơi ĐKHKTT và cư trú: Số 5 Q, phường T, quận H, Hà Nội.
(Bà Q vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và các văn bản khác có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn Ngân hàng TMCP S do bà Tạ Thị Thanh H là đại diện theo ủy quyền trình bày:
Ngân hàng TMCP S và bà Nguyễn Tố Q ký Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng (Bao gồm: Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng cá nhân). Căn cứ thu nhập của bà Q, ngày 28/02/2020 Ngân hàng TMCP S đã đồng ý cấp 01 thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng là 35.000.000 đồng; với mục đích tiêu dùng cá nhân. Ngày 28/5/2020 bà Q đã đề nghị nâng hạn mức thêm 20.000.000 đồng với mục đích mua thêm gói tập cá nhân cho người thân.
Sau khi được cấp thẻ tín dụng, bà Q đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 277.695.568 đồng. Trong quá trình sử dụng thẻ, từ ngày kích hoạt thẻ đến nay, bà Q đã thanh toán cho Ngân hàng TMCP S số tiền 264.930.000 đồng (Thứ tự thanh toán căn cứ theo Điều 20 của Bản điều khoản và Điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng). Sau đó, bà Q vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Ngân hàng TMCP S đã nhiều lần đốc thúc nhắc nhở nhưng bà Q vẫn không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng. Do bà Q vi phạm nghĩa vụ thanh toán (Điều 23 của Bản Điều khoản và Điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng), Ngân hàng TMCP S đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ của bà Q và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn (Điều 23 của Bản Điều khoản và Điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng).
Tín đến ngày 18/12/2023 bà Q còn nợ Ngân hàng TMCP S tổng số tiền là: 84.027.993 (Tám mươi tư triệu, không trăm hai mươi bảy nghìn, chín trăm chín mươi ba) đồng. Trong đó, nợ gốc: 69.671.098 đồng; Lãi quá hạn: 14.356.895 đồng.
Nay Ngân hàng TMCP S yêu cầu Tòa án giải quyết, buộc:
- Bà Nguyễn Tố Q phải thanh toán trả ngay cho Ngân hàng TMCP S tổng số tiền nợ là: 84.027.993 (Tám mươi tư triệu, không trăm hai mươi bảy nghìn, chín trăm chín mươi ba) đồng. Trong đó, nợ gốc: 69.671.098 đồng; Lãi quá hạn: 14.356.895 đồng.
- Bà Nguyễn Tố Q có trách nhiệm thanh toán khoản lãi phát sinh từ ngày 19/12/2023 cho đến khi trả dứt nợ vay theo lãi suất quy định tại hợp đồng.
Về án phí: Ngân hàng TMCP S đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.
Ngoài ra, Ngân hàng TMCP S không có yêu cầu nào khác.
Tại bản tự khai và các văn bản khác có trong hồ sơ vụ án, bị đơn bà Nguyễn Tố Q trình bày:
Bà Nguyễn Tố Q và Ngân hàng TMCP S ký Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng (Bao gồm: Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng cá nhân). Căn cứ thu nhập của bà Q, Ngân hàng TMCP S đã đồng ý cấp 01 thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng là 35.000.000 đồng; với mục đích tiêu dùng cá nhân. Ngày 28/5/2020 bà Q đã đề nghị nâng hạn mức thêm 20.000.000 đồng với mục đích mua thêm gói tập cá nhân cho người thân.
Sau khi được cấp thẻ tín dụng, bà Q đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 277.695.568 đồng. Trong quá trình sử dụng thẻ, từ ngày kích hoạt thẻ đến nay, bà Q đã thanh toán cho Ngân hàng TMCP S số tiền 264.930.000 đồng (Thứ tự thanh toán căn cứ theo Điều 20 của Bản điều khoản và Điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng). Sau đó vì lý do khách quan nên bà Q đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ.
Tính đến ngày 18/12/2023 bà Q còn nợ Ngân hàng TMCP S tổng số tiền nợ gốc là: 55.000.000 (Năm mươi lăm triệu) đồng.
Nay Ngân hàng TMCP S khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết, buộc bà Q phải thanh toán trả ngay cho Ngân hàng TMCP S tổng số tiền nợ là: 84.027.993 (Tám mươi tư triệu, không trăm hai mươi bảy nghìn, chín trăm chín mươi ba) đồng. Trong đó, nợ gốc: 69.671.098 đồng; Lãi quá hạn: 14.356.895 đồng, bà Q không đồng ý. Bà Q chỉ đồng ý trả Ngân hàng TMCP S tổng số tiền nợ gốc là 55.000.000 (Năm mươi lăm triệu) đồng và xin miễn toàn bộ số tiền nợ lãi.
Tuy nhiên do hoàn cảnh hiện nay của bà Q gặp khó khăn, không thể đưa ra lộ trình trả nợ cụ thể cho Ngân hàng được. Do vậy, bà Q đề nghị Tòa án giải quyết, đưa vụ án ra xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.
Về án phí: Bà Q đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.
Ngoài ra, bà Q không có yêu cầu nào khác.
Tại phiên tòa: Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đối với bà Nguyễn Tố Q, buộc: Bà Q phải thanh toán trả ngay cho Ngân hàng TMCP S tổng số tiền nợ tạm tính đến ngày 04/01/2024 là: 85.666.028 (Tám mươi lăm triệu, sáu trăm sáu mươi sáu nghìn, không trăm hai mươi tám) đồng. Trong đó, nợ gốc là: 69.671.098 đồng; Lãi quá hạn là: 15.994.930 đồng và phải có trách nhiệm thanh toán khoản lãi phát sinh từ ngày 19/12/2023 cho đến khi trả dứt nợ vay theo lãi suất quy định tại hợp đồng.
Bị đơn, bà Nguyễn Tố Q có đơn xin xét xử vắng mặt vì lý do công việc và đề nghị Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm phát biểu quan điểm: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử, thấy rằng Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, đương sự đã thực hiện đúng theo quy định.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP S. Buộc: Bà Q phải thanh toán trả cho Ngân hàng TMCP S tổng số tiền nợ tạm tính đến ngày 04/01/2024 là: 85.666.028 (Tám mươi lăm triệu, sáu trăm sáu mươi sáu nghìn, không trăm hai mươi tám) đồng. Trong đó, nợ gốc là: 69.671.098 đồng; Lãi quá hạn là: 15.994.930 đồng và có trách nhiệm thanh toán khoản lãi phát sinh từ ngày 19/12/2023 cho đến khi trả dứt nợ vay theo lãi suất Về án phí: Bị đơn là bà Nguyễn Tố Q phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn lại cho nguyên đơn, Ngân hàng TMCP S số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận công khai tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
Về tố tụng :
- Về quan hệ pháp luật: Tranh chấp về dân sự (hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng), Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn là bà Nguyễn Tố Q có đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú tại số 5 Q, phường T, quận H, Hà Nội. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
Quá trình giải quyết vụ án, các bên đương sự đều có mặt, thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự như: Có quan điểm tự khai, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Tuy nhiên, vì lý do công việc, bà Q có đơn xin xét xử vắng mặt; Căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn.
Về nội dung khởi kiện: Xét yêu cầu của nguyên đơn, Ngân hàng TMCP S về việc thanh toán nợ theo Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng đối với bị đơn, bà Nguyễn Tố Q, Hội đồng xét xử thấy: Ngân hàng TMCP S và bà Nguyễn Tố Q ký Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng. Căn cứ thu nhập của bà Q, ngày 28/02/2020 Ngân hàng TMCP S đã cấp thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng là 35.000.000 đồng; mục đích tiêu dùng cá nhân. Ngày 28/5/2020 bà Q đã đề nghị nâng hạn mức thêm 20.000.000 đồng với mục đích mua thêm gói tập cá nhân cho người thân. Sau khi được cấp thẻ tín dụng, bà Q đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 277.695.568 đồng. Trong quá trình sử dụng thẻ, kể từ ngày kích hoạt, bà Q đã thanh toán cho Ngân hàng TMCP S số tiền 264.930.000 đồng. Sau đó, bà Q vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Do bà Q vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên Ngân hàng TMCP S đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ của bà Q và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn. Bà Q xác nhận hai bên có ký kết hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng và đề nghị nâng hạn mức thẻ cũng như quá trình sử dụng thẻ tín dụng. Tuy nhiên, do thời gian đã lâu, bà Q chỉ nhớ là còn nợ Ngân hàng TMCP S số tiền nợ gốc 55.000.000 (Năm mươi lăm triệu) đồng và tiền lãi trên số dư nợ gốc. Tuy nhiên, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đều thể hiện, ngày 28/02/2020 Ngân hàng TMCP S cấp thẻ tín dụng cho bà Q với hạn mức sử dụng là 35.000.000 đồng; mục đích tiêu dùng cá nhân. Ngày 28/5/2020 bà Q đã đề nghị nâng hạn mức thêm 20.000.000 đồng với mục đích mua thêm gói tập cá nhân cho người thân; Quá trình sử dụng thẻ, bà Q vi phạm nghĩa vụ trả nợ, tạm tính đến ngày 04/01/2024 bà Q còn nợ Ngân hàng TMCP S số tiền nợ gốc là 69.671.098 đồng. Như vậy, có căn cứ xác định bên vay là bà Q đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Theo quy định trong hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng mà các bên ký kết thì Ngân hàng có quyền khởi kiện yêu cầu thu hồi nợ. Xác định số tiền nợ gốc và buộc bà Q phải thanh toán trả là 69.671.098 đồng.
Về yêu cầu tính lãi: Khi ký kết hợp đồng các bên đã thỏa thuận hạn mức cho vay; mức lãi suất, mức phí khi vi phạm. Trong quá trình sử dụng thẻ, bà Q đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên yêu cầu tính lãi của Ngân hàng là có căn cứ, được chấp nhận. Cụ thể, số tiền lãi quá hạn tính từ thời điểm bà Q vi phạm đến ngày xét xử 04/01/2024 theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng là 15.994.930 đồng.
Nhu vậy, tổng số tiền nợ gốc + tiền nợ lãi quá hạn bà Q phải thanh toán trả cho Ngân hàng là 85.666.028 (Tám mươi lăm triệu, sáu trăm sáu mươi sáu nghìn, không trăm hai mươi tám) đồng.
Về án phí: Bà Nguyễn Tố Q phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Ngân hàng TMCP S được hoàn lại tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Áp dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 1 Điều 227; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.
Áp dụng khoản 1, 2 Điều 91; khoản 2 Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng.
Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Luật thi hành án dân sự.
Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện, về việc “Tranh chấp hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng” giữa Ngân hàng TMCP S đối VỚI bà Nguyễn Tố Q.
Buộc bị đơn bà Nguyễn Tố Q phải trả cho Ngân hàng TMCP S tổng số tiền nợ tạm tính đến ngày 04/01/2024 là: 85.666.028 (Tám mươi lăm triệu, sáu trăm sáu mươi sáu nghìn, không trăm hai mươi tám) đồng. Trong đó, nợ gốc là: 69.671.098 đồng; Lãi quá hạn là: 15.994.930 đồng.
Về án phí: Bà Nguyễn Tố Q phải nộp 4.283.000 (Bốn triệu, hai trăm tám mươi ba nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm (Chưa nộp).
Ngân hàng TMCP S được hoàn lại số tiền 1.600.000 (Một triệu, sáu trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006018 ngày 15 tháng 11 năm 2023 tại Chi cục thi hành án dân sự quận H, thành phố Hà Nội.
Kể từ ngày kế tiếp sau ngày xét xử sơ thẩm, người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi trên số dư nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất quy định theo hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng tương ứng với thời gian chậm thi hành án cho đến thi hành xong khoản nợ.
Trường hợp bản án có hiệu lực pháp luật được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, vắng mặt bị đơn. Ngân hàng TMCP S có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bà Nguyễn Tố Q có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt, niêm yết hợp lệ.
Bản án 01/2024/DS-ST về tranh chấp hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng
Số hiệu: | 01/2024/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 04/01/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về