TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BL
BẢN ÁN 80/2021/DS-PT NGÀY 15/10/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN VÀ MƯỢN TÀI SẢN
Ngày 15 tháng 10 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh BL xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 46/2021/TLPT-DS ngày 25 tháng 5 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán và mượn tài sản”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 14/2021/DS-ST ngày 15/04/2021 của Tòa án nhân dân huyện PL, tỉnh BL bị kháng cáo.Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 59/2021/QĐ-PT ngày 16 tháng 06 năm 2021, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Lê Thị Ch, sinh năm 1968; địa chỉ: Ấp Vĩnh Hòa, xã Vĩnh Thanh, huyện PL, tỉnh BL Người đại diện theo ủy quyền của bà Ch: Anh Kim Điền Ph, sinh năm 1993; địa chỉ: Ấp Thông Lưu B , thị trấn ChH, huyện VL, tỉnh BL. (có mặt) - Đồng bị đơn: Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1979 và bà Lê Việt Th, sinh năm 1975; Cùng địa chỉ: Ấp Huê 2A, xã Vĩnh Thanh, huyện PL, tỉnh BL.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Th: Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1979; địa chỉ: Ấp Huê 2A, xã Vĩnh Thanh, huyện PL, tỉnh BL. (có mặt).
- Người kháng cáo: Bị đơn ông Nguyễn Văn S.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Người đại diện theo ủy quyền của bà Ch, anh Kim Điền Ph trình bày: Ông Nguyễn Văn S, bà Lê Việt Th có mua thức ăn gia súc của bà Ch, tính đến ngày 12/07/2017 còn nợ lại của bà Ch số tiền 222.754.000 đồng. Đến ngày 17/04/2018 bà Th có trả cho bà Ch số tiền 15.000.000 đồng, đồng thời có mượn lại của bà Ch số tiền 1.250.000 đồng nên còn thiếu lại bà Ch số tiền 209.004.000 đồng. Bà Ch đã đòi nhiều lần nhưng ông S, bà Th chưa trả. Nay bà Ch yêu cầu ông S, bà Th trả số tiền 209.004.000 đồng, yêu cầu tính lãi với mức 0,83%/1 tháng từ ngày 17/4/2018 đến ngày xét xử.
Bị đơn ông Nguyễn Văn S, bà Lê Việt Th có lời khai trình bày: Ông, bà thừa nhận trước đây có mua thức ăn gia súc còn thiếu lại và tiền lãi của bà Lê Thị Ch, tính đến ngày 17/04/2018 còn nợ lại số tiền 209.004.000 đồng, bà Th có ký vào giấy nhận nợ ghi ngày 17/04/2018 cho bà Ch. Ông, bà đồng ý trả cho bà Lê Thị Chanh số tiền còn thiếu là 209.004.000 đồng nhưng cho trả mỗi vụ lúa số tiền 5.000.000 đồng kể từ tháng 03 năm 2021 cho đến khi trả hết nợ; còn tiền lãi với mức lãi suất 0,83%/ tháng từ ngày 17/4/2018 đến ngày xét xử thì xin bà Ch không tính lãi vì hiện nay hoàn cảnh của ông, bà gặp nhiều khó khăn do nuôi heo bị bệnh chết.
Từ nội dung trên, tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 14/2021/DS-ST ngày 15/04/2021 của Tòa án nhân dân huyện PL, tỉnh BL đã quyết định:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Ch đòi ông Nguyễn Văn S, bà Lê Việt Th trả tiền mua thức ăn gia súc còn thiếu, tiền mượn là 190.595.000đồng (một trăm chín mươi triệu năm trăm chín mươi lăm nghìn nghìn đồng) và yêu cầu tính lãi với mức 0,83%/tháng từ ngày 17/04/2018 đến ngày xét xử.
Buộc ông Nguyễn Văn S, bà Lê Việt Th có nghĩa vụ trả tiền cho Bà Lê Thị Ch tổng số tiền 247.439.322 đồng (Hai trăm bốn mươi bảy triệu bốn trăm ba mươi chín nghìn ba trăm hai mươi hai đồng).
Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, lãi suất chậm trả trong giai đoạn thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 28/04/2021, bị đơn ông Nguyễn Văn S kháng cáo, vợ chồng ông không đồng ý trả cho bà Lê Thị Chanh số tiền 247.439.322 đồng bao gồm tiền mua thức ăn cùng lãi suất, tiền mượn.Tại phiên tòa, ông S giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh BL phát biểu ý kiến:
Về thủ tục tố tụng: Thông qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn S, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 14/2021/DS-ST ngày 15/04/2021 của Tòa án nhân dân huyện PL, tỉnh BL.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa và ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên, sau khi thảo luận, nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Đơn kháng cáo của ông Nguyễn Văn S trong hạn luật định nên được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm theo quy định tại Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về nội dung vụ án:
Xét kháng cáo của ông Nguyễn Văn S không đồng ý trả cho bà Lê Thị Chanh số tiền 247.439.322 đồng bao gồm tiền mua thức ăn và lãi suất, tiền mượn.
[3] Hội đồng xét xử, xét thấy: Tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã thể hiện bà Lê Thị Ch có yêu cầu ông Nguyễn Văn S và bà Lê Việt Th trả số tiền mua thức ăn gia súc còn thiếu lại là 189.345.000 đồng và số tiền bà Th mượn là 1.250.000 đồng, tổng cộng số tiền ông S, bà Th phải trả cho bà Ch là 190.595.000 đồng. Tại biên bản lấy lời khai cũng như tại phiên tòa sơ thẩm ông S cũng thừa nhận vợ chồng ông còn nợ bà Ch tiền mua bán thức ăn gia súc và tiền mượn tổng cộng là 190.595.000 đồng và ông S bà Th cũng đã chốt nợ vào ngày 17/4/2018 có ký nhận nợ cho bà Ch. Đây là tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự.
[4] Xét kháng cáo của ông Nguyễn Văn S không thống nhất với lãi suất 0,83%/tháng. Do ông S, bà Th không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho bà Lê Thị Chanh nên bà Ch có yêu cầu Tòa án tính lãi đối với số tiền 190.595.000 đồng từ ngày 17/4/2018 đến ngày xét xử sơ thẩm là 0,83%/tháng, việc yêu cầu mức lãi suất như thế chỉ bằng 9,96%/năm phù hợp với lãi suất ngân hàng nhà nước.Tại Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:„„1. Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. 2. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật này; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này”. Theo quy định này, ông S, bà Th phải có nghĩa vụ trả lãi đối với số tiền chậm trả nợ cho bà Ch được tính trên thời gian trả chậm, do các bên không thỏa thuận được mức lãi suất phải trả nên lãi suất được xác định theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015: ‘‘Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ”. Cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của bà Ch và buộc ông S, bà Th trả cho bà Ch đối với số tiền 190.595.000 đồng và tiền lãi số tiền 56.844.322 đồng. Tổng cộng là 247.439.322 đồng là có căn cứ đúng quy định pháp luật.
[5] Từ những phân tích trên, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn S, có căn cứ chấp nhận ý kiến của Kiểm sát viên, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 14/2021/DS-ST ngày 15/04/2021 của Tòa án nhân dân huyện PL, tỉnh BL.
[6] Về án phí phúc thẩm: Ông Nguyễn Văn S phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 430, 440, 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn S. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số:14/2021/DS-ST ngày 15 tháng 4 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện PL, tỉnh BL.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Ch đòi ông Nguyễn Văn S và bà Lê Việt Th trả tiền mua thức ăn gia súc, tiền mượn là 190.595.000 đồng và yêu cầu tính lãi với mức 0,83%/tháng từ ngày 17/4/2018 đến ngày xét xử.
Buộc ông Nguyễn Văn S và bà Lê Việt Th cùng có nghĩa vụ trả tiền cho bà Lê Thị Ch tổng cộng số tiền là 247.439.322 đồng (Hai trăm bốn mươi bảy triệu bốn trăm ba mươi chín ngàn ba trăm hai mươi hai đồng). Trong đó gốc là 190.595.000 đồng, lãi là 56.844.322 đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.
2. Về án phí:
+ Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch:
Bà Lê Thị Ch không phải chịu. Bà Ch đã nộp tạm ứng án phí sơ thẩm số tiền số tiền 6.396.000 đồng (sáu triệu ba trăm chín mươi sáu nghìn đồng) tại biên lai số 0009585 ngày 13 tháng 10 năm 2020 được hoàn lại tại Chi cục thi hành án dân sự huyện PL. Ông Nguyễn Văn S, bà Lê Việt Th phải chịu số tiền 12.371.966 đồng (Mười hai triệu ba trăm bảy mươi mốt nghìn chín trăm sáu mươi sáu đồng). Nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện PL.
+ Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Văn S phải chịu 300.000 đồng. Ông S đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm số tiền 300.000 đồng theo Biên lai thu số 0004781 ngày 04/5/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện PL, tỉnh BL được chuyển thu án phí.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền tự nguyện thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và 9 Luật thi hành án; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán và mượn tài sản số 80/2021/DS-PT
Số hiệu: | 80/2021/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bạc Liêu |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 15/10/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về