Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 52/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 52/2022/DS-ST NGÀY 16/06/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 280/2021/TLST-DS ngày 02 tháng 11 năm 2021 về việc tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 57/2022/QĐXXST-DS ngày 03 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Hộ kinh doanh T; địa chỉ: Ấp H, xã L, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu; đại diện Hộ kinh doanh: Ông Lê Xuân H, sinh năm 1990; người đại diện theo ủy quyền: Bà Lê Thị Ngọc T, sinh năm 1995; địa chỉ: Ấp H, xã L, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Ông Đặng Văn S (Đặng Văn G), sinh năm 1978 và bà Võ Thị N;

cùng địa chỉ ấp Đ, xã L Hải, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề va trong quá trình tố tụng tại Tòa án đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Hộ kinh doanh T la chị Lê Thị Ngọc T trình bay: Khoảng năm 2016, ông Đặng Văn S và bà Võ Thị N cùng ông Lê Xuân H - Chủ Hộ kinh doanh T có thỏa Tận việc mua bán thức ăn, hợp đồng bằng lời nói không lập thành văn bản để ông bà nuôi tôm. Đến ngày 04/01/2019 Hộ kinh doanh T cùng với ông S và bà N mới ký kết hợp đồng bằng văn bản. Theo thỏa Tận, ông S và bà N có nghĩa vụ thanh toán dứt điểm công nợ cho Hộ kinh doanh T khi T hoạch tôm chậm nhất là 01 ngày kể từ ngày T vụ tôm cuối cùng. Trong quá trình giao dịch, ông S và bà N có thanh toán cho Hộ kinh doanh T nhưng không dứt điểm, tính đến ngày 22/11/2019 ông S và bà N còn nợ số tiền 1.362.736.000 đồng tiền nợ thức ăn nuôi tôm và tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán tạm tính từ ngày 23/11/2019 đến ngày 23/9/2021 tính trên phần công nợ sổ anh Đặng Văn S (Đặng Văn Ghi): 1.124.735.000 đồng x 0.83% x 22 tháng là 205.376.611 đồng. Như vậy, tổng số tiề ông S, bà N phải trả cho Hộ kinh doanh T là 1.568.112.611 đồng (một tỷ năm trăm sáu mươi tám triệu một trăm mười hai nghìn sáu trăm mười một đồng).

Từ khi ký xác nhận nợ cho đến nay ông S và bà N không trả nợ cho Hộ kinh doanh T. Nay Hộ kinh doanh T yêu cầu ông S và bà N có trách nhiệm trả tiền mua thức ăn nuôi tôm số tiền 1.568.112.611 đồng (trong đó tiền vốn 1.362.736.000 đồng và tiền lãi tính từ ngày 23/11/2019 đến ngày 23/9/2021 tính trên phần công nợ sổ anh Đặng Văn S (Đặng Văn Ghi) số tiền 1.124.735.000 đồng x 0.83% x 22 tháng = 205.376.611 đồng).

Bị đơn ba Võ Thị N trình bay: Khoảng năm 2016, bà Võ Thị N cùng chồng là ông Đặng Văn S (tên thường gọi Đặng Văn Ghi) có thỏa Tận mua bán thức ăn, Tốc phục vụ nuôi tôm với Hộ kinh doanh T do ông Lê Xuân Hòa là chủ hộ. Đến ngày 04/01/2019 Hộ kinh doanh T cùng với ông S và bà N mới ký kết hợp đồng bằng văn bản. Theo thỏa Tận, ông S và bà N có nghĩa vụ thanh toán dứt điểm công nợ cho Hộ kinh doanh T khi T hoạch tôm chậm nhất là 01 ngày kể từ ngày T vụ tôm cuối cùng. Tuy nhiên, trong quá trình giao dịch, ông S và bà N có thanh toán cho Hộ kinh doanh T nhưng không dứt điểm, các lần thanh toán và số công nợ của ông bà đã được Hộ kinh doanh T ghi nhận trong sổ mua bán hàng hóa, cụ thể các lần như thế nào thì bà không rõ.

Theo bảng đối chiếu công nợ gần nhất được ký giữa ông S và Hộ kinh doanh T vào ngày 31/10/2019, thì ông S đã xác nhận còn nợ Hộ kinh doanh T số tiền 1.148.043.000 đồng đến ngày 15/11/2019 ông S gửi 1.200.000 đồng; tiếp đến ngày 22/11/2019, ông S gửi 30.000.000 đồng và Hộ kinh doanh T đã ngừng giao dịch với ông S và bà N. Bà xác định chữ ký tại giấy xác nhận nợ nêu trên là của ông S. Ngoài ra, ông S và bà N hiện còn một sổ ghi nhận việc mua thức ăn tôm và Tốc Tỷ sản của T với hình thức mua thiếu, sổ này mang tên bà N lấy hàng từ ngày 29/03/2015 đến ngày 11/7/2015 với nợ còn lại chưa thanh toán cho T là 32.625.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền mà ông Đặng Văn S và bà Võ Thị N còn nợ Hộ kinh doanh T là 1.362.736.000 đồng.

Nay Hộ kinh doanh T yêu cầu ông Đặng Văn S và bà Võ Thị N trả số tiền 1.362.736.000 đồng cùng tiền lãi chậm trả trong giai đoạn thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015 thì bà không ý kiến, để ông S và bà N cùng có trách nhiệm trả cho Hộ kinh doanh T số tiền trên.

Bị đơn ông Đặng Văn S: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cũng như triệu tập ông S tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm nhưng ông S vắng mặt, nên không có lời khai của ông S.

Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm:

Về thủ tục tố tụng: Thông qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án tới thời điểm này thấy rằng Thẩm phán đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71, của Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn chưa chấp hành đúng pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Hộ kinh doanh T. Buộc ông Đặng Văn S và bà Võ Thị N có nghĩa vụ trả tiền mua thức ăn nuôi tôm cho Hộ kinh doanh T số tiền 1.568.112.611 đồng (trong đó tiền vốn 1.362.736.000 đồng và tiền lãi tính từ ngày 23/11/2019 đến ngày 23/9/2021 tính trên phần công nợ sổ anh Đặng Văn S (Đặng Văn Ghi) số tiền 1.124.735.000 đồng x 0.83% x 22 tháng = 205.376.611 đồng). Án phí dân sự sơ thẩm ông S và bà N phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, nghe ý kiến trình bày của đương sự, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên, sau khi thảo luận, nghị án; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Hộ kinh doanh T khởi kiện ông Đặng Văn S và bà Võ Thị N yêu cầu trả tiền nợ thức ăn nuôi tôm; bị đơn có địa chỉ tại huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu. Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, Điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, đây là vụ án dân sự về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản và Tộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu.

[2] Về sự vắng mặt của các đương sự: Chị Lê Thị Ngọc T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, ông Đặng Văn S và bà Võ Thị N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để dự phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào khoản 1 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự nêu trên.

[3] Về nội dung: Hộ kinh doanh T khởi kiện yêu cầu ông Đặng Văn S và bà Võ Thị N trả số tiền 1.362.736.000 đồng tiền nợ thức ăn nuôi tôm và tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán tạm tính từ ngày 23/11/2019 đến ngày 23/9/2021 tính trên phần công nợ sổ anh Đặng Văn S (Đặng Văn Ghi):

1.124.735.000 đồng x 0.83% x 22 tháng là 205.376.611 đồng. Ông Đặng Văn S và bà Võ Thị N có ký tên vào “Bảng đối chiếu xác nhận công nợ” thừa nhận số tiền 1.362.736.000 đồng. Căn cứ vào khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử công nhận là sự thật và buộc ông Đặng Văn S và bà Võ Thị N có trách nhiệm trả cho Hộ kinh doanh T số tiền 1.568.112.611 đồng (trong đó tiền vốn 1.362.736.000 đồng và tiền lãi tính từ ngày 23/11/2019 đến ngày 23/9/2021 tính trên phần công nợ sổ anh Đặng Văn S (Đặng Văn Ghi) số tiền 1.124.735.000 đồng x 0.83% x 22 tháng = 205.376.611 đồng).

[4] Về yêu cầu ông Đặng Văn S và bà Võ Thị N trả tiền lãi chậm thanh toán tính từ ngày 23/11/2019 đến ngày 23/9/2021 tính trên phần công nợ sổ anh Đặng Văn S (Đặng Văn Ghi) số tiền 1.124.735.000 đồng x 0.83% x 22 tháng là 205.376.611 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy, tại khoản 2 và khoản 3 Điều 440 của Bộ luật Dân sự 2015 quy định:

“….Trường hợp các bên chỉ có thỏa Tận về thời hạn giao tai sản thì thời hạn thanh toán tiền cũng được xác định tương ứng với thời hạn giao tai sản. Nếu các bên không có thỏa Tận về thời hạn giao tai sản va thời hạn thanh toán tiền thì bên mua phải thanh toán tiền tại thời điểm nhận tai sản.

Trường hợp bên mua không thực hiện đúng nghĩa vụ trả tiền thì phải trả lãi trên số tiền chậm trả theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật nay”.

Đối chiếu với quy định trên thấy rằng: Tháng 10/2019 ông Đặng Văn S và bà Võ Thị N có ký biên nhận thừa nhận còn thiếu Hộ kinh doanh T số tiền 1.148.043 đồng. Từ khi ký nhận nợ cho đến nay ông S, bà N không trả tiền nên Hộ kinh doanh T yêu cầu trả tiền lãi chậm trả là có căn cứ. Mức lãi suất yêu cầu 0.83%/01 tháng là phù hợp quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự, thời gian chậm trả từ ngày 23/11/2019 đến ngày 23/9/2021 tính là 22 tháng số tiền số tiền 1.124.735.000 đồng x 0.83% x 22 tháng = 205.376.611 đồng. Tổng số tiền ông Đặng Văn S, bà Võ Thị N có trách nhiệm trả cho Hộ kinh doanh T số tiền 1.568.112.611 đồng (một tỷ năm trăm sáu mươi tám triệu một trăm mười hai nghìn sáu trăm mười một đồng).

[5] Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch số tiền 59.043.378 đồng, do yêu cầu của Hộ kinh doanh T được Tòa án chấp nhận toàn bộ nên ông Đặng Văn S và bà Võ Thị N phải có nghĩa vụ nộp toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[6] Xét đề nghị của Kiểm sát viên về các vấn đề có liên quan đến vụ án là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 92, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 430 và 440 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức T, miễn, giảm, T, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Hộ kinh doanh T đối với ông Đặng Văn S (Đặng Văn G) và bà Võ Thị N.

Buộc ông Đặng Văn S và bà Võ Thị N có nghĩa vụ trả cho Hộ kinh doanh T số tiền 1.568.112.611 đồng (một tỷ năm trăm sáu mươi tám triệu một trăm mười hai nghìn sáu trăm mười một đồng), trong đó tiền vốn 1.362.736.000 đồng và tiền lãi tính từ ngày 23/11/2019 đến ngày 23/9/2021 tính trên phần công nợ sổ anh Đặng Văn S (Đặng Văn G) số tiền 1.124.735.000 đồng x 0.83% x 22 tháng = 205.376.611 đồng.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch buộc ông Đặng Văn S và bà Võ Thị N có nghĩa vụ nộp số tiền 59.043.378 đồng (năm mươi chín triệu không trăm bốn mươi ba nghìn ba trăm bảy mươi tám đồng).

Hoàn trả cho Hộ kinh doanh T số tiền tạm ứng án phí 22.871.000 đồng đã nộp theo biên lai T tiền tạm ứng án phí số 0001834 ngày 02/11/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu.

Các đương sự nộp và nhận lại số tiền trên tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu.

3. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu thêm khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa Tận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cương chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 52/2022/DS-ST

Số hiệu:52/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 16/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;