Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 466/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÓC MÔN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 466/2022/DS-ST NGÀY 29/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 7 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 270/2022/TLST-DS ngày 22 tháng 12 năm 2021 về việc “Hợp đồng mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 187/2022/QĐXXST-DS ngày 23 tháng 6 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số: 155/2022/QĐST-DS ngày 11 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Tổng Công ty Điện lực TP.Hồ Chí Minh TNHH Địa chỉ: Số 35 Tôn Đức Thắng, phường Bến Nghé, Quận 1, TP.Hồ Chí Minh.

Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn D (có mặt) Địa chỉ: 68 Đỗ Văn Dậy, xã Tân Hiệp, huyện Hóc Môn, TP.Hồ Chí Minh.

- Bị đơn: Bà Phan Thị X (Vắng mặt) Địa chỉ: 174/1E ấp Tân Thới 3, xã Tân Hiệp, huyện Hóc Môn, TP.HCM.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 13/5/2021 và các Biên bản không tiến hành hòa giải được, đại diện Tổng Công ty Điện Lực Tp.HCM TNHH là ông Nguyễn Văn D trình bày:

Ngày 13/7/2016, Tổng công ty Điện lực Tp.Hồ Chí Minh TNHH có ký hợp đồng mua bán điện số 79784116069852 (Mã khách hàng: PE08000110914) với bà Phan Thị X, tại địa chỉ 174/1E ấp Tân Thới 3, xã Tân Hiệp, huyện Hóc Môn, Tp.Hồ Chí Minh. Trong quá trình sử dụng điện đã phát sinh số nợ tiền điện như sau: Kỳ hóa đơn 10/2020 số tiển nợ là 688.160 đồng; Kỳ hóa đơn 11/2020 số tiển nợ là 688.160 đồng và kỳ hóa đơn 12/2020 số tiền nợ là 1.146.751 đồng, tổng tiền nợ của 03 kỳ hóa đơn là 2.523.071 đồng, mặc dù đã đòi nhiều lần nhưng bà X cố tình không thanh toán, nay Tổng Công ty Điện lực Tp.Hồ Chí Minh TNHH yêu cầu Tòa án buộc bà Phan Thị X thanh toán cho Tổng công ty số tiền điện đã nợ là 2.523.071 đồng, thanh toán một lần ngay khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.

Quá trình giải quyết, Tòa án đã tổ chức các phiên hòa giải cho các bên đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án nhưng phía bị đơn là bà Phan Thị X cố tình vắng mặt không đến Tòa án để tiến hành hòa giải mặc dù đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ nhiều lần nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Vì vậy, Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự để Hội đồng xét xử xem xét quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng, Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Về quan hệ tranh chấp giữa Tổng công ty Điện lực Tp.Hồ Chí Minh TNHH và bà Phan Thị X là “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” được quy định tại các Điều từ 430 đến 454 Bộ luật Dân sự 2015. Bị đơn trong vụ án là bà Phan Thị X cư trú và sử dụng điện tại 174/1E ấp Tân Thới 3, xã Tân Hiệp, huyện Hóc Môn, TP.Hồ Chí Minh nên căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn.

[2] Xét yêu cầu của nguyên đơn Tổng công ty Điện lực Tp.Hồ Chí Minh TNHH có đại diện là ông Nguyễn Văn D yêu cầu bà Phan Thị X thanh toán số tiền sử dụng điện còn nợ là 2.523.071 đồng, thi hành một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Căn cứ vào những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án Hội đồng xét xử có cơ sở xác định bị đơn bà Phan Thị X đã sử dụng điện và phát sinh nợ tiền điện 03 kỳ của năm 2020 chưa thanh toán như lời trình bày của nguyên đơn. Chứng cứ nguyên đơn cung cấp khi khởi kiện yêu cầu bị đơn trả tiền điện chưa thanh toán khi sử dụng điện tại địa chỉ 174/1E ấp Tân Thới 3, xã Tân Hiệp, huyện Hóc Môn, TP.Hồ Chí Minh có Mã khách hàng: PE08000110914, là các Hóa đơn giá trị gia tăng (Tiền điện) số 2507191, Kỳ tháng 10/2020 (Từ ngày 15/9/2020 đến ngày 14/10/2020) nợ 688.160 đồng; Hóa đơn số 2667822, Kỳ tháng 11/2020 (Từ ngày 15/10/2020 đến ngày 14/11/2020) nợ 688.160 đồng và Hóa đơn số 1556268, Kỳ tháng 12/2020 (Từ ngày 15/11/2020 đến ngày 23/11/2020) nợ 1.146.751 đồng. Tổng số tiền điện còn nợ là 2.523.071 đồng. Do vậy phía nguyên đơn yêu cầu bà X thanh toán tiền điện còn nợ là 2.523.071 đồng là phù hợp nên có cơ sở chấp nhận.

Do đó cần buộc bị đơn trả số tiền còn nợ 2.523.071 đồng cho nguyên đơn để bảo đảm quyền là lợi ích hợp pháp của nguyên đơn.

[3] Xét yêu cầu của bị đơn bà Phan Thị X: Quá trình giải quyết vụ án,Tòa án đã tiến hành tống đạt, niêm yết các văn bản tố tụng nhiều lần nhưng bị đơn vẫn cố tình vắng mặt. Như vậy bị đơn biết rõ nội dung vụ kiện cũng như yêu cầu trả nợ của nguyên đơn nhưng bị đơn đã không đến Tòa để giải quyết vụ án. Theo quy định tại khoản 4 Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định: “Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc”. Do đó, bị đơn bà Phan Thị X đã từ bỏ quyền chứng minh của mình và phải chấp nhận số tiền mà phía nguyên đơn đã đưa ra nên Hội đồng xét xử không có cơ sở ghi nhận và xem xét yêu cầu của bị đơn. Vì vậy cần buộc bị đơn bà Phan Thị X trả số tiền điện còn nợ chưa thanh toán cho nguyên đơn theo quy định của pháp luật.

[5] Về án phí sơ thẩm: Bị đơn bị buộc trả nợ nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1/ Căn cứ Khoản 3 Điều 26; Điểm a khoản 1 Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 91, Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều 430, Điều 431 và Điều 440 Bộ luật dân sự 2015;

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Tổng công ty Điện lực TP.Hồ Chí Minh TNHH về việc yêu cầu bà Phan Thị X thanh toán nợ tiền điện chưa thanh toán theo Hợp đồng mua bán điện số 79784116069852 (Mã khách hàng: PE08000110914) ngày 13/7/2016.

Buộc bà Phan Thị X phải thanh toán cho Tổng công ty Điện lực TP.Hồ Chí Minh TNHH số tiền 2.523.071 đồng, thi hành một lần ngay sau khi Bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày Bản án, Quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chưa thi hành tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

2/ Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Phan Thị X phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, thi hành tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền. Hoàn trả lại cho Tổng công ty Điện lực TP.Hồ Chí Minh TNHH số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo Biên lai thu tiền số 0038251 ngày 30/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hóc Môn.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 02 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 06, 07, 07a, 07b và 09 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

121
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 466/2022/DS-ST

Số hiệu:466/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hóc Môn - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;