Bản án 25/2023/DS-ST về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRI TÔN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 25/2023/DS-ST NGÀY 17/07/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tri Tôn xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 109/2023/TLST-DS ngày 31 tháng 5 năm 2023, về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2023/QĐXXST-DS ngày 5 tháng 7 năm 2023, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Bùi Tấn X, sinh năm 1975; địa chỉ: ấp T, xã T, huyện T, tỉnh An Giang.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Minh H, sinh năm 1967; địa chỉ: khóm C, phường C, thành phố C, tỉnh An Giang (Giấy ủy quyền ngày 02/6/2023); có mặt.

Bị đơn: Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1952 và bà Nguyễn Thị A, sinh năm 1954; cùng địa chỉ: ấp T, xã N, huyện T, tỉnh An Giang; ông C có mặt, bà A vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và lời khai tại phiên tòa, nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Từ năm 2019 đến ngày 07-9-2021, vợ chồng ông Nguyễn Văn C và bà Nguyễn Thị A có nhiều lần mua thức ăn gia súc của ông Bùi Tấn X, mục đích chăn nuôi heo. Ngày 13-11-2022, ông C viết xác nhận số nợ 235.690.000 đồng. Ông X yêu cầu ông C, bà A phải trả số tiền 235.690.000 đồng và tiền lãi theo quy định tại Điều 257, Điều 468 Bộ luật Tố tụng dân sự tính từ ngày 13-11- 2021 đến ngày xét xử và nghĩa vụ trả lãi giai đoạn thi hành án.

Theo Biên bản lấy lời khai ông C ngày 12-6-2023, tự khai của bà A và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn trình bày:

Ông C xác định, lời trình bày của ông X về việc ông Có mua thức ăn chăn nuôi và còn nợ số tiền 235.690.000 đồng là đúng sự thật. Ông C đồng ý cùng bà A nhận trách nhiệm trả cho ông X 235.690.000 đồng, không trả lãi.

Bà A có lời khai thống nhất với lời khai của ông C về trách nhiệm trả nợ cho ông X.

Tại phiên tòa, Ông H1 trình bày: Số nợ 235.690.000 đồng được hình thành trong khoảng thời gian ông C, bà A mua thức ăn chăn nuôi từ năm 2019 đến ngày 07-9-2021, không thỏa thuận thời hạn trả, không thỏa thuận lãi Suất.

Ông C trình bày: Xác định toàn bộ nội dung thể hiện trong tờ xác nhận nợ ngày 13-11-2022 là đúng sự thật, tính đến ngày 07/7/2021 thì ông C, bà A còn nợ ông X số tiền mua thức ăn chăn nuôi là 235.690.000 đồng và ông viết xác nhận nợ ngày 13-11-2022. Tên “chú hiếu” thể hiện trong tờ xác nhận là ông X. Giữa ông X với ông C, bà A không thỏa thuận thời hạn trả nợ nhưng ngay sau khi viết xác nhận nợ ngày 13-11-2022, ông X đã yêu cầu ông trả nợ đủ một lần, ông không thực hiện mà yêu cầu được trả dần. Đối với yêu cầu khởi kiện của ông X, ông yêu cầu được trả dần 50 triệu đồng/năm, không đồng ý trả lãi vì ông mua bán chứ không vay. Yêu cầu được miễn án phí do ông và bà A là người cao tuổi.

Ý kiến của Kiểm sát viên:

Về việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử, Thẩm phán thực hiện đúng quy định Bộ luật Tố tụng dân sự về xác định thẩm quyền, quan hệ pháp luật tranh chấp, tư cách người tham gia tố tụng, thời hạn chuẩn bị xét xử, xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ, tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải. Tuy nhiên, vi phạm về thời hạn giao hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát (trễ 8 ngày).

Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên toà và người tham gia tố tụng đúng quy định.

Về giải quyết vụ án: Đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông X, buộc ông C, bà A liên đới trả cho ông X 275.143.860 đồng và lãi suất trong quá trình thi hành án. Ông C, bà A phải chịu án phí theo quy định.

Các bên đương sự xác định đã cung cấp đầy đủ chứng cứ cho tòa án, không còn cung cấp thêm chứng cứ nào khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng:

[1] Thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Nguyên đơn khởi kiện tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản; bị đơn có địa chỉ tại ấp T, xã N, huyện T, tỉnh An Giang. Nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tri Tôn theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về sự vắng mặt của bị đơn: Bà Nguyễn Thị A đã được triệu tập đúng quy định, vắng mặt tại phiên tòa và có yêu cầu xét xử vắng mặt. Nên Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bà A theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung:

[3] Căn cứ vào lời khai thống nhất của ông X, ông C và bà A, có cơ sở xác định, ông X và bà A có nhiều lần mua thức ăn chăn nuôi của ông X. Hai bên giao kết hợp đồng trên cơ sở tự nguyện, không vi phạm điều cấm, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán tài sản. Đến ngày 07-9- 2021, số tiền nợ là 235.690.000 đồng. Ngày 13-11-2022, ông X đã yêu cầu ông C, bà A trả nợ nhưng ông C, bà A không thực hiện là vi phạm nghĩa vụ của bên mua, ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp của bên bán. Vì vậy, theo quy định tại Điều 440, Điều 288 Bộ luật Dân sự, ông X khởi kiện yêu cầu ông C, bà A cùng có trách nhiệm trả số tiền 235.690.000 đồng là có cơ sở chấp nhận. Yêu cầu trả dần 50 triệu đồng/năm của ông C là ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của ông X, không được ông X chấp nhận, nên không có cơ sở chấp nhận.

[4] Tại phiên tòa, ông C thống nhất lời khai của ông X về việc số nợ 235.690.000 đồng mua bán thức ăn chăn nuôi hình thành từ ngày 07-9-2021 đến nay chưa trả. Các bên xác định không thỏa thuận việc trả lãi. Việc ông C, bà A c thực hiện nghĩa vụ thanh toán số tiền mua bán thức ăn chăn nuôi 235.690.000 đồng là vi phạm Điều 440 Bộ luật Dân sự. Nên ông C, bà A phải thực hiện nghĩa vụ trả lãi đối với số tiền chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự. Đồng thời, thời gian tính lãi từ ngày 13-11-2021 là có lợi cho bị đơn. Nên có cơ sở chấp nhận yêu cầu của ông X về việc yêu cầu ông C, bà A cùng có trách nhiệm trả lãi gồm:

- Tính từ ngày 13-11-2021 đến ngày xét xử (ngày 17/7/2023): 235.690.000 đồng x 10%/năm x (01 năm + 8 tháng + 5 ngày) = 39.609.000 đồng.

- Tiền lãi ở giai đoạn thi hành án theo hướng dẫn tại điểm b khoản 1 Điều 13 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Ông X được chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện nên không phải chịu án phí sơ thẩm, hoàn trả tiền tạm ứng án phí cho ông X. Ông C và bà A phải chịu toàn bộ án phí sơ thẩm nhưng cùng là người cao tuổi, có yêu cầu miễn án phí nên thuộc trường hợp được miễn án phí sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 430, 440, 357, 468, 288 Bộ luật Dân sự 2015; khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 147, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

[1] Chấp nhận nhận yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Tấn X.

Buộc ông Nguyễn Văn C và bà Nguyễn Thị A cùng có trách nhiệm trả cho ông Bùi Tấn X tiền vốn 235.690.000 (hai trăm ba mươi lăm triệu, sáu trăm chín mươi nghìn) đồng và tiền lãi 39.609.000 (ba mươi chín triệu, sáu trăm linh chín nghìn) đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

[2] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Ông Bùi Tấn X được chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện nên không phải chịu án phí sơ thẩm, hoàn trả cho ông X số tiền 5.892.000 (năm triệu, tám trăm chín mươi hai nghìn) đồng tạm ứng án phí theo Biên lai tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0010060 ngày 15/5/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Tri Tôn.

Ông Nguyễn Văn C và bà Nguyễn Thị A là người cao tuổi và có yêu cầu miễn án phí nên thuộc trường hợp được miễn án phí dân sự sơ thẩm.

[3] Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ông Bùi Tấn X, ông Nguyễn Văn C có quyền kháng cáo đề yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Riêng thời hạn kháng cáo của bà Nguyễn Thị A là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt đúng quy định.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 25/2023/DS-ST về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

Số hiệu:25/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tri Tôn - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 17/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;