Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 23/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦU NGANG, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 23/2022/DS-ST NGÀY 07/06/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 6 năm 2022, tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Cầu Ngang tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 04/2021/TLST-DS ngày 19/10/2021 về “Tranh chấp hợp đồng dân sự về mua bán tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2022/QĐXXST-DS ngày 26/4/2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lý Thị Đông H, sinh năm 1961, có mặt Địa chỉ: Khóm M, thị Trấn C, huyện C, tỉnh Trà Vinh.

Bị đơn: Chị Hà Thị T, sinh năm 1987, có mặt Địa chỉ: Ấp R, xã V, huyện C, tỉnh Trà Vinh.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Lê Văn V, sinh năm 1977, có mặt.

Địa chỉ: Ấp R, xã V, huyện C, tỉnh Trà Vinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, các lời khai tại Tòa án và trong quá trình xét xử nguyên đơn bà Lý Thị Đông H trình bày:

Năm 2017 đến ngày 26/4/2019 đại lý thức ăn 7 V là chị Hà Thị T và anh Lê Văn V có mua thức ăn thủy sản của tôi là Đại lý Năm Đ với số tiền là 471.097.000 đồng, tiền thuốc Âu Việt là 80.910.000 đồng, sau đó phần thuốc không bán được trả về là 19.955.000 đồng, tiền thuốc còn lại là 60.955.000 đồng. Tổng cộng tiền thuốc và tiền thức ăn thủy sản là 532.052.000 đồng. Ngày 15/5/2020 chị T, anh V có trả tôi số tiền là 81.500.000 đồng (tiền cấn trừ chiếc xe tải). Số tiền còn lại là 450.552.000 đồng. Chị T và anh V đã nhiều lần hứa trả nhưng không trả cho tôi, hiện tại vợ chồng chị T, anh V không còn làm đại lý mua bán gì nữa. Nay tôi yêu cầu Tòa án buộc chị T, anh V phải trả cho tôi 450.552.000 đồng, việc anh V và chị T đã ly hôn thì tôi yêu cầu chia đôi mỗi người phải trả phân nửa số nợ trên cho tôi bởi vì nợ này là vợ chồng cùng mua, cùng thiếu trong thời gian vợ chồng chưa ly hôn.

Theo bản tự khai và lời khai tại Tòa án, trong quá trình xét xử bị đơn chị Hà Thị T trình bày:

Việc bà Lý Thị Đông H trình bày là đúng. Thời gian đó vợ chồng tôi có làm đại lý và mua thức ăn thủy sản, thuốc của đại lý Năm Đ, chủ đại lý là bà Lý Thị Đông H, vì làm ăn thất bại nên giờ không còn mua bán nữa, hiện tại vợ chồng tôi đã ly hôn, khi ly hôn vợ chồng không có chia tài sản, không chia nợ chung. Tổng số nợ tôi và anh V còn thiếu bà H là 450.552.000 đồng. Nay nợ thì phải trả, nên tôi chấp nhận trả phân nửa số nợ theo yêu cầu của bà H.

Tại phiên tòa hôm nay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lê Văn V trình bày: Bà H yêu cầu tôi phải trả phân nửa số nợ là tôi không chấp nhận, bởi vì việc giao dịch mua bán là do chị T và bà H tính toán với nhau. Trong thời gian vợ chồng chưa ly hôn thì tôi biết là có nợ, nhưng khi ly hôn tài sản chung cũng như về nợ chung tôi đã giao cho chị T quyết định hết, nên chị T phải có trách nhiệm trả toàn bộ số nợ này, tôi không còn trách nhiệm nửa.

Ý kiến của Kiểm sát viên:

- Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán từ khi thụ lý hồ sơ vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 430,433, 440; 468 Bộ luật dân sự chấp nhận yêu cầu của bà H; buộc chị T, anh V mỗi người phải trả phân nửa số tiền còn nợ là 450.552.000 đồng. Về lãi suất chậm trả bà Huê không yêu cầu nên không xem xét.

- Về án phí: Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc chị T, anh V phải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Tòa án nhân dân huyện Cầu Ngang nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

- Về thẩm quyền giải quyết: Xét thấy bị đơn và nơi thực hiện giao dịch tranh chấp trên địa bàn huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cầu Ngang theo quy định tại Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Xét đơn khởi kiện cuả bà H yêu cầu chị T, anh V phải trả số tiền mua thức ăn thủy sản còn nợ, nên xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp hợp đồng dân sự về mua bán tài sản” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Xét yêu cầu của bà Lý Thị Đông H yêu cầu chị Hà Thị T và anh Lê Văn V phải trả số tiền mua thức ăn, thuốc thủy sản còn nợ 450.552.000 đồng;

- Nhận thấy theo lời khai của chị T và giấy nhận nợ thì chị T thừa nhận có mua thức ăn, thuốc thủy sản và còn nợ số tiền theo như bà H trình bày, nay đồng ý trả theo yêu cầu của bà Huê.

- Về phía anh V cho rằng số nợ này có trong thời gian anh và chị T chưa ly hôn, nhưng việc mua bán là do chị T mua bán với bà H, anh không rỏ, mặc khác khi ly hôn thì anh đã đồng ý để tài sản cho chị T bán để trả nợ, nên nay số nợ này chị T phải trả hết, anh không còn trách nhiệm phải trả. Xét lời trình bày của anh V thì thấy rằng đây là số nợ phát sinh từ năm 2017 – 2019, thời gian này chị T và anh V chưa ly hôn, nên đây là nợ chung của chị T và anh V trong thời kỳ hôn nhân còn tồn tại nên anh V và chị T phải chịu trách nhiệm theo quy định tại Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình.

- Theo quyết định ly hôn của chị T và anh V số 141 ngày 05/5/2021 khi ly hôn, tài sản chung, nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết, hiện tại chị T, anh V đã ly hôn nên nay bà H yêu cầu chị T, anh V mỗi người phải có trách nhiệm trả phân nửa số nợ 450.552.000 đồng là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại các Điều 430,433, 440 Bộ luật Dân sự.

[3] Về án phí: Do yêu cầu của bà Lý Thị Đông H được chấp nhận nên bà H không phải chịu án phí.

Chị Hà Thị T, anh Lê Văn V mỗi người phải chịu 5% án phí theo quy định.

[4] Xét về quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát như nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26; các Điều 35; 39; 273 của Bộ luật tố tụng Dân sự; Căn cứ các Điều 430,433, 440 Bộ luật Dân sự;

Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lý Thị Đông H.

Buộc chị Hà Thị T và anh Lê Văn V phải trả bà Lý Thị Đông H số tiền mua thức ăn và thuốc thủy sản còn nợ 450.552.000 đồng ( Bốn trăm năm mươi triệu năm trăm năm mươi hai nghìn đồng). Cụ thể chị Hà Thị T phải trả 225.276.000 đồng (Hai trăm hai mươi lăm triệu hai trăm bảy mươi sáu nghìn đồng), anh Lê Văn V phải trả 225.276.000 đồng (Hai trăm hai mươi lăm triệu hai trăm bảy mươi sáu nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu thêm cho bên được thi hành án khoản tiền lãi theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

Về án phí:

- Bà Lý Thị Đông H không phải chịu án phí và được trả lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 11.011.040 đồng (Mười một triệu không trăm mười một nghìn không trăm bốn mươi đồng) theo biên lai thu số 0004531 ngày 13/10/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cầu Ngang.

- Chị Hà Thị T phải chịu 11.263.800 đồng (Mười một triệu hai trăm sáu mươi ba nghìn tám trăm đồng).

- Anh Lê Văn V phải chịu 11.263.800 đồng (Mười một triệu hai trăm sáu mươi ba nghìn tám trăm đồng).

Án xử sơ thẩm, nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Lê Văn V vắng mặt khi tuyên án nên được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

129
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 23/2022/DS-ST

Số hiệu:23/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cầu Ngang - Trà Vinh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 07/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;