TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI BÈ, TỈNH TIỀN GIANG
BẢN ÁN 216/2020/DS-ST NGÀY 13/11/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN
Ngày 13 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 295/2020/TLST-DS ngày 01/10/2020 về việc tranh chấp: “Hợp đồng mua bán tài sản”.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 248B/2020/QĐST-DS ngày 30/10/2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị X, sinh năm 1982.
Địa chỉ: ấp M, xã H huyện C, tỉnh Tiền Giang.
- Bị đơn:
1/ Anh Đặng Thanh H, sinh năm 1978.
2/ Chị Nguyễn Thị Thùy T, sinh năm 1978.
Hộ khẩu thường trú: ấp 3, xã M, huyện C, tỉnh Đồng Tháp. Tạm trú: ấp 4, xã A, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
(Chị X, anh H có mặt; chị T vắng mặt không lý do)
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai ngày 04/9/2020 các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị X trình bày: Ngày 14/5/2016 chị X có bán lúa khô cho anh H và chị T với số lượng lúa 40.654kg, giống AB giá 6.400kg, số tiền 260.185.000 đồng, trước khi bán lúa hai bên giao kèo khi cân xong phải thanh toán tiền liền, nh ưng sau khi cân lúa xong anh H và chị T nói không đem đủ tiền nên chỉ trả trước cho chị X 200.185.000 đồng, còn nợ lại 60.000.000 đồng anh H và chị T làm giấy biên nhận nợ hẹn đến ngày 15/5/2016 sẽ trả đủ, nhưng k hi đến ngày trả tiền thì anh H và chị không đến và điện thoại liên lạc không được.
Theo đơn khởi kiện thì chị X yêu cầu Toà án giải quyết buộc anh H và chị T có nghĩa vụ trả số tiền 60.000.000 đồng và tiền lãi chậm trả theo lãi suất ngân hàng 0,83%/tháng tính từ ngày 15/5/2016 cho đến ngày xét xử. Nhưng tại phiên toà chị X chỉ yêu cầu anh Đặng Thanh H có nghĩa vụ trả số tiền 60.000.000 đồng và tiền lãi chậm trả theo lãi suất ngân hàng 0,83%/tháng tính từ ngày 15/5/2016 cho đến ngày xét xử, yêu cầu trả 01 lần sau khi án có hiệu lực pháp luật.
* Tại bản tự khai ngày 02/11/2020 các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn anh Đặng Thanh trình bày:
Anh thống nhất với ý kiến trình bày của chị X về thời gian mua lúa và số lượng lúa, anh H thừa nhận anh còn nợ số tiền 60.000.000 đồng của chị X cho đến ngay vẫn chưa trả do gia đình đang gặp khó khăn. Nay anh H đồng ý một mình anh H trả cho chị X số tiền còn nợ 60.000.000 đồng, nhưng xin trả dẫn mỗi tháng 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm ngàn đồng) cho đến khi hết nợ, xin không trả lãi do hoàn cảnh gia đình khó khăn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Bị đơn chị Nguyễn Thị Thùy T đã đươc tống đạt hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên toà nhưng vắng mặt không rõ lý do, nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị T là có căn cứ đúng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Xét, yêu cầu khởi kiện của chị X yêu cầu anh H trả số tiền 60.000.000 đồng là có cơ sở chấp nhận. Bởi lẽ, tại phiên tòa anh H thừa nhận và đồng ý trả cho chị X số tiền còn nợ 60.000.000 đồng, nên lời thừa nhận nợ của anh H đây là tình tiết không cần phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự. Do đó, chị X yêu cầu anh H trả số tiền 60.000.000 đồng là hoàn toàn có căn cứ phù hợp với quy định tại Điều 430, Điều 440 Bộ luật dân sự.
[3] Ngoài ra, chị X có yêu cầu anh H trả lãi đối với số tiền 60.000.000 đồng tính từ ngày 15/5/2016 cho đến ngày xét xử lấy tròn 53 tháng với mức lãi suất chậm trả 0,83%/tháng là có cơ sở chấp nhận. Bởi vì, anh H đã mua lúa của chị X hứa đến ngày 15/5/2016 sẽ trả tiền nhưng cho đến nay chưa trả nên anh H phải chịu lãi suất chậm trả theo quy định tại Điều 468 Bộ luật dân sự, nên số tiền lãi anh H có trách nhiệm trả cho chị X là 60.000.000 đồng x 53 tháng x 0,83%/tháng = 26.394.000 đồng (Hai mươi sáu triệu ba trăm chín mươi bốn ngàn đồng).
[4] Theo đơn kiện ngày 04/9/2020 chị X có yêu cầu chị Nguyễn Thị Thùy T có trách nhiệm cùng với anh Đặng Thanh H trả số tiền vốn 60.000.000 đồng và lãi tính từ ngày 15/5/2016 đến ngày xét xử mức lãi chậm trả 0,83%/tháng, nhưng tại phiên toà chị X xin rút lại không yêu cầu chị T có trách nhiệm cùng với anh H trả số tiền này. Xét, việc rút yêu cầu nói trên là hoàn toàn tự nguyện, căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 217, khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của chị X về việc yêu cầu chị T có trách nhiệm cùng với anh H trả số tiền vốn và lãi.
[5] Tại phiên toà chị X, anh H không thoả thuận được về thời gian trả số tiền vốn và lãi. Cho nên, phương thức trả, thời gian trả số tiền trên do hai bên đương sự thỏa thuận với nhau khi đến giai đoạn thi hành án.
[6] Về án phí: Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị X, căn cứ vào khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Toà án, nên anh H phải chịu 86.394.000 đồng x 5% = 4.319.700 đồng (Bốn triệu ba trăm mười chín ngàn bảy trăm đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng các Điều 430, Điều 440, khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự; điểm c khoản 1 Điều 217, khoản 2 Điều 244, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271, 272, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.
Xử :
1. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của chị Nguyễn Thị X về việc yêu cầu chị Nguyễn Thị Thùy T có nghĩa vụ cùng với anh Đặng Thanh H trả số tiền vốn và lãi 86.394.000 đồng (Tám mươi sáu triệu ba trăm chín mươi bốn ngàn đồng).
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị X.
Buộc anh Đặng Thanh H có nghĩa vụ trả cho chị Nguyễn Thị X số tiền vốn 60.000.000 đồng và tiền lãi 26.394.000 đồng, tổng cộng 86.394.000 đồng (Tám mươi sáu triệu ba trăm chín mươi bốn ngàn đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.
3. Về án phí: Anh Đặng Thanh H phải chịu 4.319.700 đồng (Bốn triệu ba trăm mười chín ngàn bảy trăm đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả cho chị Nguyễn Thị X số tiền 2.137.000 đồng (Hai triệu một trăm ba mươi bảy ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0004020 ngày 01/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Tiền Giang.
4. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị X, anh Đặng Thanh H được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; chị Nguyễn Thị Thùy T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm.
5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự
Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 216/2020/DS-ST
Số hiệu: | 216/2020/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cái Bè - Tiền Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 13/11/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về