Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 17/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN ĐỀ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 17/2022/DS-ST NGÀY 16/06/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Trong ngày 16 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 84/2021/TLST- DS, ngày 06 tháng 7 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2021/QĐXXST- DS ngày 05 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn : Trần Đại H; Sinh năm: 1973. Địa chỉ đăng ký TT: Ph, phường Ph, Thành phố Nh, tỉnh Khánh Hòa; Địa chỉ liên hệ: khóm Tr, phường Kh, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng – Là chủ hộ kinh doanh Đại lý Tr tại địa chỉ: ấp M, xã Tr, huyện Tr, tỉnh Sóc Trăng.

Ngưi đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Trần Đại H: Bà Nguyễn Minh Th, sinh năm: 1995. Địa chỉ ĐKTT: ấp Tr, xã Tr, huyện Ch, tỉnh Hậu Giang. Địa chỉ liên hệ: khóm Tr, phường Kh, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

* Đồng bị đơn :

1. Lê Văn Kh; Sinh năm: 1984. Cư trú tại: ấp N, xã L, huyện Tr, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt).

2. Huỳnh Thị M; Sinh năm: 1987. Cư trú tại: ấp N, xã L, huyện Tr, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện ngày 21 tháng 5 năm 2022, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là bà Nguyễn Minh Th trình bày:

Vào năm 2018 ông Trần Đại H có hợp đồng mua bán thức ăn và thuốc nuôi trồng thủy sản cho ông Lê Văn Kh và bà Huỳnh Thị M, hợp đồng bằng lời nói, không có lập thành văn bản, nhưng phía ông H có lập sổ giao nhận hàng.

Theo thỏa thuận bắt đầu từ ngày 30/8/2018 phía ông H bán thức ăn và thuốc thủy sản cho ông Kh và bà M. Hàng hóa được nhân viên giao hàng chở tận nơi hoặc ông Kh và bà M hoặc hoặc người nhà của ông Kh đến lấy hàng tại kho của ông H. Ông Kh và bà M tiến hành kiểm tra và ký bảng đối chiếu xác nhận công nợ khi ông H yêu cầu. Cuối vụ thu hoạch tôm, ông Kh và bà M phải thanh toán hết tiền hàng cho ông H. Trường hợp xét thấy công nợ cao, ông Kh và bà M vẫn không thanh toán tiền hàng, ông H có quyền cắt hàng và đề nghị ông Kh, bà M thanh toán hết tiền hàng còn nợ cho ông H. Thời điểm cắt hàng được xem là thời điểm chấm dứt giao dịch.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng ông H đã cung cấp hàng hóa đúng theo yêu cầu đặt hàng của ông Kh và bà M. Sau khi nhận hàng ông Kh và bà M không hề phàn nàn hay có khiếu nại gì về số lượng, chất lượng, chủng loại hàng hóa mà ông H đã giao. Mặc dù, ông H thực hiện đúng thỏa thuận hợp đồng, nhưng ông Kh và bà M đã không thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán, cụ thể: Đến cuối vụ tôm, ông Kh và bà M không thanh toán hết tiền hàng cho ông H, đến khi công nợ lên đến số tiền là 196.233.000 đồng thì ngày 02/5/2019 ông Kh và bà M gửi trả cho ông H được số tiền là 80.000.000 đồng và hàng còn dư trả về quy đổi ra tiền là 13.844.000 đồng, còn nợ lại số tiền là 102.389.000 đồng. Từ đó đến nay thì ông Kh và bà M không thanh toán tiếp số tiền còn nợ cho ông H. Ông H đã nhiều lần cho nhân viên gọi điên và trực tiếp đến nhà yêu cầu ông Kh, bà M trả tiền hàng còn nợ cho ông H, nhưng ông Kh và bà M vẫn không thanh toán tiền cho ông H. Nay ông Trần Đại H yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Lê Văn Kh và bà Huỳnh Thị M phải cùng có trách nhiệm hoàn trả cho ông H số tiền nợ gốc là 102.389.000 đồng và tiền lãi chậm trả tương ứng với lãi suất là 10%/năm từ ngày 03/5/2019 đến ngày 03/5/2021 (là 02 năm) với số tiền là 20.477.000 đồng, tổng cộng tiền gốc và tiền lãi là 122.866.000 đồng và tiền lãi được tính tiếp từ ngày Bản án/Quyết định có hiệu lực pháp luật cho đến khi ông Kh và bà M trả hết nợ cho ông H.

* Bị đơn là ông Lê Văn Kh đã được Tòa án tống đạt thông báo về việc thụ lý vụ án hợp lệ và được thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định của pháp luật hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt, ông Kh không gửi văn bản ghi ý kiến của mình cũng như không đến tham gia phiên họp và hòa giải, nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của ông Kh.

* Bị đơn là bà Huỳnh Thị M đã được Tòa án tống đạt thông báo về việc thụ lý vụ án hợp lệ và được thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định của pháp luật hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt, bà M không gửi văn bản ghi ý kiến của mình cũng như không đến tham gia phiên họp và hòa giải, nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của bà M.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa. Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Ông Lê Văn Kh và bà Huỳnh Thị M là đồng bị đơn trong vụ án, ông Kh và bà M đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt ông Kh và bà M.

Đối với người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Nguyễn Minh Th đã có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bà Th.

[1.2] Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn Trần Đại H thì nguyên đơn có hợp đồng mua bán thức ăn và thuốc nuôi trồng thủy sản cho bị đơn Lê Văn Kh và Huỳnh Thị M nhiều lần và hiện nay ông Kh và bà M còn nợ ông H tổng số tiền gốc là 102.389.000 đồng. Do ông Kh và bà M vi phạm hợp đồng, nên ông H yêu cầu ông Kh và bà M phải hoàn trả tổng số tiền là 102.389.000 đồng và tiền lãi chậm trả. Hội đồng xét xử xác định quan hệ tranh chấp phát sinh trong vụ kiện này là Tranh chấp Hợp đồng mua bán tài sản theo Điều 430 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án nhân dân huyện Trần Đề thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.

[2] Về nội dung vụ án:

Xét yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu ông Lê Văn Kh và bà Huỳnh Thị M phải cùng có trách nhiệm liên đới hoàn trả tổng số tiền gốc và tiền lãi 122.866.000 đồng và tiền lãi được tính tiếp từ ngày Bản án/Quyết định có hiệu lực pháp luật cho đến khi ông Kh và bà M trả hết nợ cho ông H.

Để chứng minh cho việc ông Lê Văn Kh và bà Huỳnh Thị M có hợp đồng mua thức ăn của ông H, ông H đã cung cấp cho Tòa án các chứng cứ sau: 01 (một) quyển sổ giao nhận hàng; Bảng đối chiếu xác nhận nợ ngày 03/5/2019 và các giấy tờ khác có liên quan. Sau khi nhận được đơn khởi kiện của ông Trần Đại H, Tòa án nhân dân huyện Trần Đề đã gửi thông báo về việc thụ lý vụ án về nội dung yêu cầu khởi kiện của ông Trần Đại H và Tòa án đã tống đạt hợp lệ cho ông Lê Văn Kh và bà Huỳnh Thị M, nhưng ông Kh và bà M không gửi văn bản ghi ý kiến của mình, không có ý kiến phản đối yêu cầu khởi kiện của ông Trần Đại H.

- Đối với bị đơn là ông Lê Văn Kh sau khi nhận được đơn khởi kiện của ông Trần Đại H, Tòa án nhân dân huyện Trần Đề có gửi thông báo về việc thụ lý vụ án về nội dung yêu cầu khởi kiện của ông Trần Đại H và Tòa án đã tống đạt hợp lệ cho ông Kh, nhưng ông Kh không gửi văn bản ghi ý kiến của mình, không có ý kiến phản đối yêu cầu khởi kiện của ông Trần Đại H. Do đó, Hội đồng xét xử xem như ông Kh đã chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Trần Đại H.

- Đối với bị đơn là bà Huỳnh Thị M sau khi nhận được đơn khởi kiện của ông Trần Đại H, Tòa án nhân dân huyện Trần Đề có gửi thông báo về việc thụ lý vụ án về nội dung yêu cầu khởi kiện của ông Trần Đại H và Tòa án đã tống đạt hợp lệ cho bà M, nhưng bà M không gửi văn bản ghi ý kiến của mình, không có ý kiến phản đối yêu cầu khởi kiện của ông Trần Đại H. Do đó, Hội đồng xét xử xem như bà M đã chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Trần Đại H.

Hội đồng xét xử xét thấy: Tại đơn khởi kiện ngày 21 tháng 5 năm 2022, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là bà Nguyễn Minh Th trình bày: Giữa nguyên đơn Trần Đại H và bị đơn Lê Văn Kh, Huỳnh Thị M có hợp đồng mua bán thức ăn và thuốc nuôi trồng thủy sản với nhau từ năm 2018, quá trình mua bán có làm sổ giao nhận hàng, quá trình mua bán diễn ra nhiều lần đến ngày 03/5/2019 hai bên có gặp nhau xác nhận công nợ, cụ thể là Bảng đối chiếu xác nhận công nợ ngày 03/5/2019, trong đó có nội dung là ông Kh, bà M còn nợ hộ kinh doanh Tr (do ông Trần Đại H làm đại diện) số tiền là 102.389.000 đồng. Đối với đồng bị đơn là ông Lê Văn Kh và bà Huỳnh Thị M, sau khi nhận được đơn khởi kiện của ông Trần Đại H, Tòa án nhân dân huyện Trần Đề có gửi thông báo về việc thụ lý vụ án về nội dung yêu cầu khởi kiện của ông Trần Đại H và Tòa án đã tống đạt hợp lệ cho ông Kh, bà M, nhưng ông Kh, bà M không gửi văn bản ghi ý kiến của mình, không có ý kiến phản đối yêu cầu khởi kiện của ông Trần Đại H. Do đó, Hội đồng xét xử xem như ông Kh, bà M đã chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông H. Căn cứ vào khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự thì đây là tình tiết, sự kiện ông H không cần phải chứng minh. Như vậy, Hội đồng xét xử có cơ sở để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H. Tại đơn khởi kiện ngày 21 tháng 5 năm 2022, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn yêu cầu tính lãi suất của số tiền gốc 102.389.000 đồng và tiền lãi chậm trả tương ứng với lãi suất là 10%/năm (tương ứng 0,833%/tháng) từ ngày 03/5/2019 đến ngày 03/5/2021 (là 02 năm) với số tiền là 20.477.000 đồng, tổng cộng tiền gốc và tiền lãi là 122.866.000 đồng và tiền lãi được tính tiếp từ ngày Bản án/Quyết định có hiệu lực pháp luật cho đến khi ông Kh và bà M trả hết nợ cho ông H. Do ông Kh và bà M vi phạm hợp đồng không trả tiền cho ông H đúng hạn, nên phải chịu phần tiền lãi suất chậm trả và lãi suất được tính như sau: Từ ngày 03/5/2019 DL đến ngày 03/5/2021 DL là 24 tháng. Lãi suất được tính cụ thể là: 102.389.000 đồng x 24 tháng x 0,833% = 20.469.609 đồng.

Như vậy, số tiền gốc và tiền lãi mà ông Kh và bà M phải cùng có trách nhiệm liên đới hoàn trả cho ông Trần Đại H là: 102.389.000 đồng + 20.469.609 đồng = 122.858.609 đồng.

Xét về hình thức, nội dung và mục đích của hợp đồng nhận thấy: Ông H, ông Kh và bà M có hợp đồng mua bán tài sản với nhau (hợp đồng mua bán thức ăn và thuốc nuôi trồng thủy sản) từ năm 2018. Do đó, xác định đây là quan hệ hợp đồng mua bán tài sản theo quy định tại Điều 430 của Bộ luật dân sự năm 2015. Ông H, ông Kh và bà M là những người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, khi giao kết hợp đồng đều hoàn toàn dựa trên cơ sở tự nguyện của các bên, đối tượng giao dịch được pháp luật cho phép, hình thức, nội dung và mục đích của hợp đồng phù hợp với pháp luật và không trái đạo đức xã hội tại thời điểm xác lập hợp đồng, nên cần công nhận đây là hợp đồng mua bán tài sản hợp pháp và giải quyết hậu quả phát sinh từ hợp đồng này theo quy định tại các Điều 117, Điều 119, Điều 398, Điều 422, Điều 423, Điều 427, Điều 430 và Điều 688 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Do người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn yêu cầu số tiền gốc và tiền lãi là 122.866.000 đồng là có sự chênh lệch về số tiền, do làm tròn số, nhưng không đáng kể, cần điều chĩnh lại. Vì vậy, cần xử buộc ông Lê Văn Kh và bà Huỳnh Thị M phải cùng có trách nhiệm liên đới hoàn trả cho ông Trần Đại H tổng số tiền gốc và tiền lãi 122.858.609 đồng.

[3] Án phí dân sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc ông Lê Văn Kh và bà Huỳnh Thị M phải liên đới nộp số tiền án phí dân sự sơ thẩm là 6.142.930 đồng. Ông Trần Đại H không phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả lại cho ông Trần Đại H số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 3.071.650 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007922 ngày 29 tháng 6 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng.

Ngoài ra, căn cứ vào Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự, tuyên quyền kháng cáo cho các đương sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 2 Điều 92, Điều 144, Điều 147, khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Các Điều 117, Điều 119, Điều 398, Điều 422, Điều 423, Điều 427 và Điều 430 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 27 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 09 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP, ngày 11 tháng 01 năm 2019 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Điều 17 Luật phí và Lệ phí; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Đại H.

Buộc ông Lê Văn Kh và bà Huỳnh Thị M phải cùng có trách nhiệm liên đới hoàn trả cho ông Trần Đại H tổng số tiền gốc và tiền lãi 122.858.609 đồng (Một trăm hai mươi hai triệu tám trăm năm mươi tám ngàn sáu trăm lẽ chín đồng).

Khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày ông H có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong số tiền 122.858.609 đồng (Một trăm hai mươi hai triệu tám trăm năm mươi tám ngàn sáu trăm lẽ chín đồng) thì hàng tháng ông Kh, bà M còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Lê Văn Kh và bà Huỳnh Thị M phải liên đới nộp số tiền án phí dân sự sơ thẩm là 6.142.930 đồng (Sáu triệu một trăm bốn mươi hai ngàn chín trăm ba mươi đồng). Ông Trần Đại H không phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả lại cho ông Trần Đại H số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 3.071.650 đồng (Ba triệu không trăm bảy mươi mốt ngàn sáu trăm năm mươi đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007922 ngày 29 tháng 6 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng.

3. Về quyền kháng cáo bản án: Ông Trần Đại H, ông Lê Văn Kh và bà Huỳnh Thị M có quyền làm đơn kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

140
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 17/2022/DS-ST

Số hiệu:17/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Đề - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 16/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;