Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 17/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUY HÒA - TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 17/2022/DS-ST NGÀY 09/03/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 222/2017/TLST-DS ngày 28/11/2017, về tranh chấp“Hợp đồng mua bán tài sản”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 110/2021/QĐXXST-DS ngày 13/10/2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Hồ Thị Thanh S, sinh năm: 1964; Địa chỉ: 27 T, phường M, thành phố T, Phú Yên.

2. Bị đơn: Ông Lê B, sinh năm: 1937 và bà Trần Thị Thu N, sinh năm: 1968;

Cùng địa chỉ: khu phố B, phường S, thành phố T, Phú Yên.

Các đương sự đều vắng mặt, đều có đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện bổ sung và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Hồ Thị Thanh S trình bày: Yêu cầu bà N, ông B phải trả số tiền mua xe còn nợ là 11.200.000 đồng, lãi suất 20% trên 01 năm từ ngày nợ 22/10/2017 cho đến khi trả xong, và tiếp tục tính lãi sau khi tòa xử có bản án. Yêu cầu giải quyết vắng mặt cho đến khi có bản án.

* Tại biên bản lấy lời khai ngày 21/01/2022, bị đơn ông Lê B, bà Trần Thị Thu N trình bày: Trước đây, ông bà có mua của bà Hồ Thị Thanh S 01 chiếc xe máy nhưng lâu lắm rồi, không nhớ rõ năm nào. Đến ngày 22/10/2017, ông bà có viết giấy xác nhận nợ còn nợ lại bà Hồ Thị Thanh S số tiền mua xe là 11.200.000 đồng. Tuy nhiên, đến ngày 21/11/2021, ông bà đã lên gặp bà S, đem xe lên cấn trừ nợ là 4.000.000 đồng và trả thêm cho bà S 5.000.000 đồng nữa là hết nợ. Giữa ông bà và bà S thống nhất là đã giải quyết xong, không còn nợ gì bà S nữa. Bà S hứa sẽ xuống Tòa rút đơn, không kiện nữa. Nên nay bà S yêu cầu ông bà trả nợ, ông bà không chấp nhận. Vì điều kiện sức khỏe, ông bà không thể sắp xếp đến Tòa được nên đề nghị Tòa giải quyết, xét xử vắng mặt ông bà cho đến khi có bản án có hiệu lực của Tòa.

Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa đã tiến hành hòa giải nhưng không được.

Tại phiên tòa: Nguyên đơn, bị đơn đều vắng mặt, không có trình bày.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuy Hòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định pháp luật. Về việc giải quyết vụ án: đề nghị HĐXX áp dụng các Điều 357, 430, 431, 433, 434, 440, 468, 688 của Bộ luật dân sự năm 2015, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Hồ Thị Thanh S, buộc bị đơn phải trả cho bà S số tiền mua xe còn nợ và tiền lãi theo mức lãi suất 20%/năm trên số tiền gốc 11.200.000 đồng kể từ ngày nợ cho đến ngày 21/11/2021 trả được 9.000.000 đồng, trừ số tiền bị đơn đã trả được vào nợ gốc; lãi tính tiếp theo trên nợ gốc còn lại là 2.200.000 đồng từ ngày 21/11/2021 đến ngày xét xử sơ thẩm. Về án phí: Ông B, bà N mỗi người phải chịu ½ án phí dân sự sơ thẩm; nhưng ông B là người cao tuổi nên được miễn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ mà vẫn vắng mặt và đều có đề nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Xét nội dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

[3] Căn cứ Giấy xác nhận nợ ngày 22/10/2017 (bản gốc) do nguyên đơn cung cấp thể hiện: “Bà Trần Thị Thu N mua xe còn nợ lại: 11.200.000 đồng, lãi suất 02%/tháng. Mỗi tháng bà N đồng ý trả 1.500.000 đồng tiền góp và tiền lãi 02/tháng”. Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa đã yêu cầu các đương sự cung cấp “Hợp đồng mua bán xe máy” được xác lập giữa hai bên nhưng các bên không cung cấp được. Xét thấy: Dù các bên không cung cấp được Hợp đồng mua bán xe, thông tin xe và các giấy tờ có liên quan nhưng căn cứ giấy nhận nợ và ý kiến trình bày của bị đơn cũng thừa nhận có mua xe của bà S; HĐXX xác định giữa nguyên đơn bà Hồ Thị Thanh S và bị đơn ông Lê B, bà Trần Thị Thu N có xác lập giao dịch mua bán xe, ràng buộc trách nhiệm của các bên.

[4] Mặc dù, Giấy nhận nợ ngày 22/10/2017 không thể hiện được bà Trần Thị Thu N, có năm sinh, cư trú tại địa chỉ nào, nhưng trong đơn khởi kiện bà S đã cung cấp được địa chỉ của bà N. Tòa án đã tiến hành xác minh và xác định được bà N dù không có đăng ký hộ khẩu thường trú, tạm trú nhưng có sống tại địa chỉ nguyên đơn cung cấp cùng ông Lê B vào thời điểm xác lập hợp đồng mua bán, và cũng xác định tại địa chỉ này, ngoài bị đơn không có ai khác tên là Lê B, Trần Thị Thu N. Tại Biên bản lấy lời khai ngày 21/01/2022, ông B, bà N xác định hiện ông bà đang sinh sống và cư trú tại địa chỉ này. Giấy nhận nợ ngày 22/10/2017 cũng không thể hiện ông Lê B cùng với bà Trần Thị Thu N mua xe của bà S nhưng tại biên bản lấy lời khai ngày 21/01/2022, ông B thừa nhận ông và bà N có mua xe của bà S và thừa nhận có nợ số tiền 11.200.000 đồng như giấy nhận nợ. Do đó, có cơ sở xác định: Bà Trần Thị Thu N, ông Lê B có mua xe của bà Hồ Thị Thanh S và đến ngày 22/10/2017 còn nợ lại số tiền 11.200.000 đồng. Khi đến hạn trả nợ, ông B, bà N không trả nợ cho bà S là vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo quy định tại Điều 440 Bộ luật dân sự nên bà S khởi kiện yêu cầu ông B, bà N phải trả số tiền mua xe còn nợ là có căn cứ nên chấp nhận.

[5] Tuy nhiên, ngày 21/11/2021 ông B, bà N đã trả được cho bà S số tiền tổng cộng là 9.000.000 đồng (sau khi 02 bên thỏa thuận cấn trừ xe và trả thêm tiền), có giấy tờ hai bên cùng ký và đều xác nhận. Số tiền 9.000.000 đồng bị đơn đã trả này được trừ vào khoản nợ gốc 11.200.000 đồng, nên số nợ gốc còn lại sau ngày 21/11/2021 là 2.200.000 đồng.

[6] Xét yêu cầu tính lãi của nguyên đơn: Căn cứ Giấy xác nhận nợ ngày 22/10/2017, các bên thỏa thuận lãi suất 02%/tháng là vượt quá lãi suất được giới hạn quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự nên được điều chỉnh lại theo mức 20%/năm, như sau:

[7] Tiền lãi từ ngày 22/10/2017 đến ngày 21/11/2021 (trả được 9.000.000 đồng) là (04 năm 29 ngày x 11.200.000 đồng x 20%/năm) = 9.140.444 đồng.

[8] Tiền lãi từ ngày 21/11/2021 đến ngày xét xử sơ thẩm ngày 09/3/2022 trên số tiền gốc còn lại là (03 tháng 16 ngày x 2.200.000 đồng x 20%/năm) = 129.554 đồng.

[9] Tổng cộng gốc và lãi ông Lê B, bà Trần Thị Thu N có trách nhiệm trả cho nguyên đơn là 11.469.998 đồng.

[10] Về án phí: Bị đơn ông Lê B, bà Lê Thị Thu N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật (mỗi người chịu ½). Tuy nhiên, ông B là người cao tuổi nên được miễn án phí theo quy định tại Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 357, 430, 431, 433, 434, 440, 468, 688 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Hồ Thị Thanh S, buộc bị đơn ông Lê B và bà Trần Thị Thu N phải có trách nhiệm trả cho nguyên đơn bà Hồ Thị Thanh S số tiền mua xe máy còn nợ tính đến ngày 09/3/2022, tổng cộng là 11.469.998 đồng (Mười một triệu bốn trăm sáu mươi chín nghìn chín trăm chín mươi tám đồng); trong đó: tiền nợ gốc là 2.200.000 đồng, tiền lãi là 9.269.998 đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015.

Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 12, 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị đơn phải chịu 573.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm (mỗi người chịu ½). Tuy nhiên, ông Lê B là người cao tuổi nên được miễn án phí; bà Trần Thị Thu N phải chịu 287.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn lại cho nguyên đơn bà Hồ Thị Thanh S 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0009715 ngày 27/11/2017 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Tuy Hòa.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

256
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 17/2022/DS-ST

Số hiệu:17/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuy Hòa - Phú Yên
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 09/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;