TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH Đ
BẢN ÁN 106/2023/DS-PT NGÀY 06/06/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN
Ngày 06 tháng 6 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đ, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 68/2023/TLPT - DS ngày 25 tháng 4 năm 2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 83/2022/DS-ST ngày 29/12/2022 của Tòa án nhân dân huyện Di Linh, tỉnh Đ bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 107/2023/QĐ-PT ngày 04 tháng 5 năm 2023; Quyết định hoãn phiên toà số 386/2023/QĐ-PT ngày 23/5/2023 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: ông Ninh Văn T, sinh năm 1970 và bà Vũ Thị T1, sinh năm 1973; cùng trú tại: số 32, thôn 1, xã Hoà Nam, huyện Di Linh, tỉnh Đ. Có mặt.
2. Bị đơn: ông Trần Văn C, sinh năm 1960 và bà Phạm Thị T1, sinh năm 1959; cùng trú tại: thôn 8, xã Hoà Nam, huyện Di Linh, tỉnh Đ. Có mặt.
Người kháng cáo: Bà Phạm Thị T1 – Bị đơn
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông Ninh Văn T và bà Vũ Thị T1 trình bày:
Do có mối quan hệ hàng xóm, láng giềng và quen biết nhau nên từ năm 2011, vợ chồng ông bà nhiều lần bán cám lợn cho gia đình ông C, bà T1 theo hình thức lấy hàng trước, trả tiền sau; khi mua bán chỉ nói bằng miệng chứ không làm hợp đồng, sau khi lợn xuất chuồng thì sẽ thanh toán tiền nợ cám. Tuy nhiên vợ chồng ông C, bà T1 đã không trả tiền nợ cám như đã thoả thuận. Tính đến ngày 15/02/2015 ông C, bà T1 còn nợ tiền mua cám là 135.000.000đ, 02 bên đã lập giấy nợ, hẹn đến ngày 15/4/2015 sẽ thanh toán và thỏa thuận lãi suất là 1,5%/tháng; bà T1, ông C đã ký xác nhận nội dung này. Mặc dù đã nhiều lần yêu cầu trả số tiền nợ và lãi suất như thoả thuận nhưng vợ chồng ông C, bà T1 không trả. Thông qua Công ty đòi nợ thuê An Phát thì ngày 15/3/2016 vợ chồng ông C, bà T1 trả được 30.000.000đ; ngày 25/3/2017 vợ chồng ông C bà T1 trả thêm 25.000.000đ; Tổng số tiền mà vợ chồng ông C, bà T1 đã trả sau ngày chốt nợ 15/02/2015 là 55.000.000đ, số tiền nợ gốc còn lại là 80.000.000đ. Nay vợ chồng ông, bà yêu cầu ông C, bà T1 trả 80.000.000đ nợ gốc và tiền lãi phát sinh, cụ thể: Tiền lãi của 135.000.000đ theo mức 1,5%/tháng, thời gian tính lãi từ ngày 15/4/2015 đến ngày 15/3/2016 là 11 tháng, thành tiền là 14.850.000đ; Tiền lãi của số tiền 80.000.000đ theo mức 1,5%/tháng, thời gian tính lãi từ ngày 25/3/2017 đến ngày 25/6/2022, làm tròn là 63 tháng, thành tiền là 75.600.000đ; Cộng số tiền lãi yêu cầu là 90.450.000đ; Tổng số tiền gốc và lãi yêu cầu là 170.450.000đ.
Bị đơn ông C, bà T1 trình bày: Gia đình bà có mua cám lợn của nhà bà T1, ông C từ ngày 29/6/2013 đến ngày 23/8/2013 với hình thức nhận hàng trước, khi nào lợn xuất chuồng thì trả tiền cám như ông T, bà T1 trình bày là đúng. Tuy nhiên, quá trình mua cám, vợ chồng đã trả tiền nhiều lần, hiện chỉ nợ lại số tiền 73.633.000đ. Đến ngày 06/5/2014 trả 22.700.000đ (trong sổ bà T1 chỉ ghi có nhận 20.000.000đ); ngày 15/3/2016 thông qua Công ty đòi nợ An Phát trả 30.000.000đ; ngày 25/3/2017 trả 25.000.000đ thông qua Công ty đòi nợ An Phát. Tổng số tiền đã trả là 77.700.000đ, đã vượt quá số tiền nợ gốc. Do đó, trước yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ông T, bà T1 thì vợ chồng ông bà không đồng ý trả.
Tòa án tiến hành hòa giải nhưng không thành.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 83/2022/DS-ST ngày 29 tháng 12 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Di Linh, tuyên xử:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ông Ninh Văn T và bà Vũ Thị T1.
Vợ chồng ông Trần Văn C và bà Phạm Thị T1 có trách nhiệm trả cho vợ chồng ông Ninh Văn T và bà Vũ Thị T1 số tiền nợ gốc 80.000.000đ và 81.225.000đ tiền lãi. Tổng số tiền phải trả là 161.225.000đ (một trăm sáu mươi mốt triệu hai trăm hai mươi lăm nghìn đồng) Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo và trách nhiệm thi hành án của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 17/4/2023, bà Phạm Thị T1 kháng cáo toàn bộ nội dung bản án dân sự sơ thẩm.
Tại phiên tòa hôm nay:
Bị đơn bà Phạm Thị T1 vẫn giữ nguyên kháng cáo.
Nguyên đơn ông Ninh Văn T và bà Vũ Thị T1 không đồng ý kháng cáo của bị đơn và đề nghị giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ phát biểu: Về thủ tục tố tụng Thẩm phán, Hội đồng xét xử thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, các đương sự cũng đã chấp hành đầy đủ giấy báo của Tòa án, thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình tại phiên tòa phúc thẩm. Về nội dung: Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án và qua tranh tụng công khai tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn. Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bà Trần Thị T1 trong thời hạn luật định, bà T1 sinh năm 1959 thuộc trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm theo qui định tại điểm đ Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban T1ờng vụ Quốc hội nên được chấp nhận giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về quan hệ tranh chấp: Xuất phát từ việc nguyên đơn ông Ninh Văn T và bà Vũ Thị T1 khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông Trần Văn C, bà Phạm Thị T1 trả tiền nợ mua cám tổng cộng là 170.450.000đ (trong đó tiền gốc là 80.000.000đ và tiền lãi 90.450.000đ); còn bị đơn ông C, bà T1 cho rằng đã trả hết tiền nợ mua cám, không đồng ý trả theo yêu cầu của nguyên đơn nên các bên phát sinh tranh chấp. Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” là có căn cứ.
[3] Xét kháng cáo của bị đơn bà Phạm Thị T1 thấy rằng:
[3.1] Nguyên đơn ông Ninh Văn T và bà Vũ Thị T1 cho rằng giữa vợ chồng ông bà với vợ chồng ông Trần Văn C, bà Phạm Thị T1 có giao dịch mua bán hàng hoá, theo đó ông bà đã nhiều lần bán cám lợn cho vợ chồng ông C, bà T1 từ năm 2011 đến năm 2014. Tuy nhiên bà T1 không trả tiền như đã thoả thuận nên vào ngày 15/02/2015, hai bên chốt số tiền nợ mà bà T1 đã mua cám lợn là 135.000.000đ. Thông qua Công ty đòi nợ thuê An Phát thì vào ngày 15/3/2016 bà T1 trả 30.000.000đ, ngày 25/3/2017 trả 25.000.000đ và còn nợ lại 80.000.000đ. Vì vậy, bà yêu cầu ông C, bà T1 trả số tiền gốc nợ 80.000.000đ và tiền lãi cụ thể: 135.000.000đ theo mức 1,5%/tháng, thời gian tính lãi từ ngày 15/4/2015 đến ngày 15/3/2016 là 11 tháng, thành tiền là 14.850.000đ; Tiền lãi của số tiền 80.000.000đ theo mức 1,5%/tháng, thời gian tính lãi từ ngày 25/3/2017 đến ngày 25/6/2022, làm tròn là 63 tháng, thành tiền là 75.600.000đ.
Cộng số tiền lãi yêu cầu là 90.450.000đ; Tổng số tiền gốc và lãi yêu cầu là 170.450.000đ. Bị đơn ông C, bà T1 cho rằng sau khi lấy cám lợn thì đã nhiều lần trả tiền nợ cám cho ông T, bà T1, chỉ nợ lại 73.633.000đ; đến ngày 06/5/2014 có trả 22.700.000đ (trong sổ sách thì bà T1 chỉ ghi có nhận 20.000.000đ); ngày 15/3/2016 có trả 30.000.000đ; ngày 25/3/2017 trả 25.000.000đ; Tổng số tiền đã trả là 77.700.000đ, vượt quá số tiền nợ gốc nên không đồng ý trả nợ như yêu cầu của vợ chồng ông T, bà T1.
[3.2] Theo như lời trình bày của các bên đương sự thì giữa ông T, bà T1 với vợ chồng ông C, bà T1 có mua bán cám lợn trên thực tế theo hình thức lấy hàng trước, trả tiền sau từ trước năm 2015.
Xét giấy ghi nợ ngày 15/02/2015, được các bên xác nhận là giấy chốt tiền nợ cám có nội dung: “Bác C T1 vay 135.000.000đ (một trăm ba mươi lăm triệu đồng), lãi suất 1,5%/1 tháng. Hẹn 15/4/2015 trả. Có chữ ký của bà Phạm Thị T1 và ông Trần Văn C. Năm 2016: trả 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng); ngày 25/3/2017 trả 25.000.000đ (hai mươi lăm triệu)”.
Như vậy, theo giấy nợ nêu trên thì vợ chồng ông C, bà T1 có nợ tiền mua cám của ông T, bà T1 số tiền 135.000.000đ. Mặc dù bà T1, ông C cho rằng chỉ nợ tiền cám là 73.663.000đ nhưng thừa nhận chữ kí ghi họ tên “Phạm Thị T1 T1” và chữ ký “C” là do ông C và bà T1 ký và viết nên có cơ sở xác định tính đến ngày 15/02/2015, vợ chồng ông C, bà T1 còn nợ lại tiền mua cám của vợ chồng ông T, bà T1 là 135.000.000đ.
[3.3] Bà Phạm Thị T1 cho rằng vào ngày 06/5/2014 có trả cho bà T1 số tiền 22.700.000đ (trong sổ sách thì bà T1 chỉ ghi có nhận 20.000.000đ). Tuy nhiên bà T1 không thừa nhận và không có tài liệu chứng cứ nào thể hiện bà T1 có nhận của bà T1 số tiền 22.700.000đ, hơn nữa giấy chốt nợ tiền cám được xác lập vào ngày 15/3/2015 nên không có cơ sở chấp nhận trình bày của bà T1.
[3.4] Đối với số tiền 55.000.000đ mà bà T1 đã trả cho bà T1 vào các ngày 15/3/2016 trả 30.000.000đ và ngày 25/3/2017 trả 25.000.000, tổng cộng là 55.000.000đ; cả 02 lần trả đều thông qua Công ty đòi nợ thuê An Phát, được các bên thừa nhận nên căn cứ Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì đây là những tình tiết, sự kiện không cần phải chứng minh.
Do đó, việc vợ chồng ông Ninh Văn T và bà Vũ Thị T1 yêu cầu vợ chồng ông Trần Văn C, bà Phạm Thị T1 trả tiền nợ gốc mua cám là: 135.000.000đ - 55.000.000đ = 80.000.000đ là có cơ sở chấp nhận, cấp sơ thẩm đã nhận định và đánh giá đúng tính chất của án.
[4] Giấy xác nhận nợ ngày 15/02/2015 thể hiện số tiền vay 135.000.000đ, lãi suất 1,5%/ tháng, hẹn 15/4/2015 trả. Sau đó thông qua Công ty đòi nợ thuê An Phát, năm 2016 trả 30.000.000đ; ngày 25/3/2017 trả 25.000.000đ. Tính đến ngày cấp sơ thẩm thụ lý giải quyết vụ án thì thời hiệu khởi kiện đã hết. Tuy nhiên tại giai đoạn sơ thẩm, các đương sự không yêu cầu áp dụng thời hiệu nên không đặt ra xem xét.
[5] Từ những phân tích trên, kháng cáo của bị đơn bà Phạm Thị T1 là không có cơ sở chấp nhận, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm theo hướng đã nhận định trên.
[6] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị đơn bà Phạm Thị T1 phải chịu án phí phúc thẩm. Tuy nhiên, tính đến ngày xét xử sơ thẩm bị đơn bà Phạm Thị T1 đã trên 60 tuổi nên được miễn toàn bộ án phí theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự.
Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban T1ờng vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Phạm Thị T1, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 83/2022/DSST ngày 29/12/2022 của Tòa án nhân dân huyện Di Linh.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Ninh Văn T và bà Vũ Thị T1 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” với bị đơn ông Trần Văn C, bà Phạm Thị T1.
Buộc ông Trần Văn C và bà Phạm Thị T1 có nghĩa vụ trả cho ông Ninh Văn T và bà Vũ Thị T1 số tiền 161.225.000đ (một trăm sáu mươi mốt triệu hai trăm hai mươi lăm nghìn đồng), trong đó nợ gốc 80.000.000đ và 81.225.000đ tiền lãi.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
2. Về án phí: Miễn án phí dân sự sơ thẩm và án phí dân sự phúc thẩm cho ông Trần Văn C và bà Phạm Thị T1.
Hoàn trả lại cho ông Ninh Văn T và bà Vũ Thị T1 tiền tạm ứng án phí đã nộp là 4.700.000đ (bốn triệu bảy trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0006880 ngày 20/10/2022 của Chi cục thi hành án Dân sự huyện Di Linh, tỉnh Đ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7,7a,7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án 106/2023/DS-PT về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản
Số hiệu: | 106/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 06/06/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về