Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản (bị đơn cho rằng thức ăn chăn nuôi kém chất lượng) số 18/2022/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦU NGANG - TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 18/2022/DS-ST NGÀY 24/05/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Trong ngày 24 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 163/2022/TLST- DS, ngày 22/3/2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2022/QĐXXST-DS, ngày 10/5/2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Đỗ Văn M, sinh năm 1962. Có mặt.

Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1962. Có mặt. Cùng địa chỉ: Ấp C, xã H, huyện C, tỉnh Trà Vinh.

Bị đơn: Chị Trần Thị Ái L, sinh năm 1979. Địa chỉ: Ấp C, xã H, huyện C, tỉnh Trà Vinh. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Đỗ Văn T, sinh năm 1995. Địa chỉ: Ấp C, xã H, huyện C, tỉnh Trà Vinh. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Đỗ Văn M và bà Nguyễn Thị T cùng trình bày:

Ông Đỗ Văn M và bà Nguyễn Thị T là vợ chồng, ông Đỗ Văn M là người đứng tên đăng ký kinh doanh, còn bà Nguyễn Thị T là người đứng ra bán thức ăn. Từ năm 2016 đến đầu năm 2018 ông M, bà Thảo có bán thức ăn nuôi tôm và thuốc thủy sản cho chị Trần Thị Ái L, hợp đồng giao kết bằng lời nói, mỗi lần chị L nhận thức ăn và thuốc đều có ghi vào sổ, ông M, bà T giao hàng tận nơi cho chị L nhận đầy đủ số lượng hàng đã mua.

Phương thức thanh toán cho gối đầu, hình thức bao ao, khi thu hoạch tôm phải trả tiền, thời gian nuôi tôm từ 03 tháng đến 05 tháng, tùy theo nuôi tôm thẻ hay nuôi tôm sú. Quá trình thực hiện hợp đồng, có lúc chị L trả tiền, có lúc nợ lại, cộng dồn số nợ tính đến ngày 13/10/2019 đối chiếu công nợ thì chị Trần Thị Ái L còn thiếu số tiền 163.891.000 đồng, sau một thời gian dài chị L trả được 15.000.000 đồng (lần trả tiền sau cùng là 5.000.000 đồng vào ngày 12/01/2021), hiện còn nợ 148.891.000 đồng chưa trả, mặt dù đòi nợ nhiều lần, chị L đưa ra lý do cho rằng thức ăn kém chất lượng nên không trả tiền. Từ ngày 13/10/2019 đến nay chị L không khiếu nại, không khởi kiện gì về thức ăn kém chất lượng, còn thức ăn và thuốc thủy sản ông M, bà T đã bán cho chị L, chị L đã sử dụng đổ xuống ao nuôi tôm hết, không có trả lại bao nào.

Nay ông M, bà T khởi kiện yêu cầu giải quyết buộc chị Trần Thị Ái L phải trả 148.891.000 đồng tiền mua thức ăn và thuốc thủy sản còn nợ, ông M, bà T không yêu cầu tính lãi suất. Ngoài ra không yêu cầu gì khác.

Tại các bản khai, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa bị đơn chị Trần Thị Ái L trình bày:

Qua lời trình bày của ông M, bà T về giao dịch hợp đồng mua bán thức ăn và thuốc thủy sản nêu trên là đúng. Chị thừa nhận có mua thức ăn và thuốc thủy sản của ông M, bà T tính đến nay còn thiếu 148.891.000 đồng chưa trả. Nay chị chấp nhận trả số tiền 83.891.000 đồng, còn lại 65.000.000 đồng chị không đồng ý trả, lý do thức ăn ông M, bà T bán kém chất lượng, làm thiệt hại về nuôi tôm, dẫn đến tôm chết, bị thua lỗ. Số thức ăn mua của ông M, bà Thảo chị đã sử dụng hết số thức ăn này vào việc nuôi tôm, không có trả lại, nguyên nhân dẫn đến tôm chết là do tự chị suy đoán thức ăn kém chất lượng, chứ không có Cơ quan Nhà nước nào kết luận việc này, cuối năm 2017 đến nay chị không có thưa kiện hay khiếu nại ông M, bà T bán thức ăn kém chất lượng. Tại phiên tòa chị thừa nhận còn thiếu 148.891.000 đồng nhưng chỉ chấp nhận trả cho ông M, bà T số tiền 83.891.000 đồng, còn lại 65.000.000 đồng chị không đồng ý trả. Ngoài ra chị không có yêu cầu gì khác.

Tại các bản khai, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa anh Đỗ Văn T trình bày: Anh là con ruột của ông M, bà T. Thông báo đối chiếu công nợ đề ngày 13/10/2019 là do chị L và anh cùng ký tên vào để xác nhận công nợ là chị Trần Thị Ái L còn thiếu 163.891.000 đồng, chị L cam kết thời gian trả nợ chia làm 03 đợt như sau: Từ ngày 13/10/2019-13/6/2020 trả 01 lần; từ ngày 13/6/2020 – 13/02/2021 trả 01 lần; từ ngày 13/02/2021 – 13/10/2021 trả 01 lần, chị L đọc kỹ tờ giấy này rồi ký tên vào, kết quả chị L chỉ trả được 15.000.000 đồng, còn lại số tiền 148.891.000 đồng chị L chưa trả.

Những tình tiết các bên đương sự thống nhất với nhau:

- Về số tiền tranh chấp: Ông M, bà T trình bày hiện tại chị Trần Thị Ái L còn nợ 148.891.000 đồng tiền mua thức ăn và thuốc thủy sản chưa trả. Chị Trần Thị Ái L thừa nhận còn nợ 148.891.000 đồng là đúng sự thật.

- Về chứng cứ: Thông báo đối chiếu công nợ đề ngày 13/10/2019 là do chị L và anh T (con ông M, bà T) cùng ký tên vào để xác nhận công nợ là chị Trần Thị Ái L còn thiếu 163.891.000 đồng. Sau đó chị L có trả được 15.000.000 đồng, còn nợ lại 148.891.000 đồng chưa trả.

- Về số thức ăn đã bán: Chị L đã sử dụng hết, không có trả lại cho ông M bà T, tự chị L suy đoán thức ăn kém chất lượng, chứ không có Cơ quan Nhà nước nào kết luận việc này, chị L không có thưa kiện hay khiếu nại ông M, bà T bán thức ăn kém chất lượng.

Những tình tiết các bên đương sự không thống nhất về số tiền phải trả:

- Ông M, bà T yêu cầu chị L phải trả số tiền 148.891.000 đồng, không yêu cầu tính lãi suất.

- Chị Trần Thị Ái L thừa nhận còn thiếu ông M, bà T số tiền 148.891.000 đồng nhưng chỉ chấp nhận trả 83.891.000 đồng, còn lại 65.000.000 đồng chị không đồng ý trả.

Lời phát biểu của Kiểm sát viên:

- Về việc tuân theo pháp luật: Thủ tục thụ lý hồ sơ vụ án, xác định quan hệ pháp luật, xác định người tham gia tố tụng, thành phần tham gia phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, thành phần Hội đồng xét xử đều đúng quy định pháp luật, các văn bản tố tụng đều tống đạt đầy đủ. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã tiến hành đúng trình tự thủ tục theo quy định Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 430 và Điều 440 của Bộ luật dân sự. Chấp nhận đơn khởi kiện của ông M, bà T, buộc chị L phải trả 148.891.000 đồng cho ông M, bà T. Buộc chị L phải nộp 7.444.550 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định.

[1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Xét thấy ông M, bà T làm đơn khởi kiện chị L yêu cầu giải quyết buộc chị L phải trả số tiền mua thức ăn và thuốc thủy sản còn thiếu 148.891.000 đồng, ngoài ra không yêu cầu gì khác. Căn cứ khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự, xác định đây là vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[2]. Về nội dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn:

Xét thấy trong khoảng thời gian từ năm 2016 đến đầu năm 2018 ông Đỗ Văn M và bà Nguyễn Thị T có bán thức ăn nuôi tôm và thuốc thủy sản cho chị Trần Thị Ái L, hợp đồng giao kết bằng lời nói, phương thức thanh toán cho gối đầu, bao ao, khi thu hoạch tôm phải trả tiền, thời gian nuôi tôm từ 03 tháng đến 05 tháng tùy theo tôm thẻ hay nuôi tôm sú. Quá trình thực hiện hợp đồng, có lúc chị L trả tiền, có lúc nợ lại, tính đến ngày 13/10/2019 đối chiếu công nợ chị L còn thiếu 163.891.000 đồng, sau đó chị L trả được 15.000.000 đồng (lần trả tiền sau cùng là 5.000.000 đồng vào ngày 12/01/2021), hiện còn nợ 148.891.000 đồng chưa trả.

Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa chị L thừa nhận còn nợ ông M, bà T số tiền 148.891.000 đồng, nhưng chị L chỉ chấp nhận trả 83.891.000 đồng, còn lại 65.000.000 đồng chị L không đồng ý trả. Lý do thức ăn ông M, bà T bán kém chất lượng, làm thiệt hại về tôm nên chị L không trả hết số nợ.

Xét lý do không trả tiền mà chị L nêu ra là không có cơ sở để chấp nhận. Bởi lẽ việc mua bán thức ăn giữa ông M, bà T và chị L giao kết hợp đồng trên tinh thần tự nguyện, hợp đồng đã thực hiện trong thời gian dài, số bao thức ăn và thuốc mà chị L mua của ông M, bà T, chị L đã sử dụng vào việc nuôi tôm hết, không có trả lại, tại phiên tòa chị L cho rằng thức ăn kém chất lượng, dẫn đến tôm chết là do chị nghe từ ông M bán thức ăn nói lại, chứ chị L không có chứng cứ gì để chứng minh việc này và cũng không có Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền Giám định và Kết luận thức ăn kém chất lượng. Từ cuối năm 2017 đến nay chị L không có khởi kiện hay khiếu nại gì về thức ăn kém chất lượng, ngày 13/10/2019 anh T (con ông M, bà T) cùng chị L đối chiếu công nợ thì chị L thừa nhận có thiếu số tiền 163.891.000 đồng và hứa trả làm 03 đợt, kết quả chị L chỉ trả được 15.000.000 đồng, còn lại số tiền 148.891.000 đồng chị L còn nợ ông M bà T đến nay chưa trả.

Tại Điều 440 của Bộ luật Dân sự quy định như sau:

“- Bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền theo thời hạn, địa điểm và mức tiền được quy định trong hợp đồng.

- Trường hợp các bên chỉ có thỏa thuận về thời hạn giao tài sản thì thời hạn thanh toán tiền cũng được xác định tương ứng với thời hạn giao tài sản. Nếu các bên không có thỏa thuận về thời hạn giao tài sản và thời hạn thanh toán tiền thì bên mua phải thanh toán tiền tại thời điểm nhận tài sản…” Đối chiếu quy định trên, xét thấy chị L nợ ông M, bà T số tiền 148.891.000 đồng từ ngày 13/10/2019 đến nay không trả là vi phạm nghĩa vụ trả tiền của bên mua. Nay ông M, bà T khởi kiện yêu cầu chị L phải trả 148.891.000 đồng là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định pháp luật và được Hội đồng xét xử chấp nhận.

- Về lãi suất chậm trả tiền: Tại đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa ông M, bà T không đặt ra yêu cầu giải quyết. Hội đồng xét xử không xem xét.

[3]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc chị Trần Thị Ái L phải nộp 05% tiền án phí được tính trên tổng số tiền mà chị L có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn. Ông M, bà T không phải chịu án phí, do ông M, bà T được miễn nộp tiền tạm ứng án phí nên không xử lý.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, Điều 35; Điều 92; các Điều 147, 235, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 430, 433, 440 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự. Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của ông Đỗ Văn M và bà Nguyễn Thị T.

- Buộc chị Trần Thị Ái L có nghĩa vụ trả 148.891.000 đồng (Một trăm bốn mươi tám triệu, tám trăm chín mươi mốt nghìn đồng) cho ông Đỗ Văn M và bà Nguyễn Thị T.

Kể từ khi có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành còn phải chịu thêm cho bên được thi hành khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc chị Trần Thị Ái L có nghĩa vụ nộp 7.444.550 đồng (Bảy triệu, bốn trăm bốn mươi bốn nghìn, năm trăm năm mươi đồng) án phí.

- Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 02 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản (bị đơn cho rằng thức ăn chăn nuôi kém chất lượng) số 18/2022/DS-ST

Số hiệu:18/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cầu Ngang - Trà Vinh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;