TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH BẠC LIÊU
BẢN ÁN 11/2022/DS-ST NGÀY 01/03/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN
Ngày 01 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 250/2021/TLST-DS ngày 11 tháng 10 năm 2021 về việc tranh chấp hợp đồng mua bán, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2022/QĐXXST-DS ngày 25 tháng 01 năm 2022 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Quang T – Chủ hộ kinh doanh đại lý H.
Nơi đăng ký HKTT: Số B02/30E Khóm T, Phường G, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu.
Địa chỉ: Số 4, đường N, Phường D, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Trần Thùy L, sinh năm 1995, đia chỉ: Ấp 18, xã V, huyện H, tỉnh Bạc Liêu.
- Đồng bị đơn: Ông Nguyễn Minh H, sinh năm 1966 Bà Trần Thị Nguyệt A, sinh năm 1964 Cùng địa chỉ: Số 5/417, ấp G, xã V, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu.
(Bà L có đơn xin xét xử vắng mặt; ông H, bà A vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình tố tụng, đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Quang T – Chủ hộ kinh doanh đại lý H trình bày: Do mối quan hệ làm ăn nên Hộ kinh doanh Đại lý H có bán thức ăn tôm của Công ty LDHH thức ăn Thủy Sản V và các loại thuốc thủy sản cho ông Nguyễn Minh H và bà Trần Thị Nguyệt A , theo đơn đặt hàng của ông H và bà A. Phương thức thanh toán là Hộ kinh doanh Đại lý H bán hàng cho ông H và bà A đến khi thu hoạch tôm sẽ thanh 1 toán dứt điểm công nợ cho Hộ kinh doanh Đại lý H. Trong quá trình giao dịch ông H và bà A có thanh toán cho Hộ kinh doanh Đại lý H nhưng không dứt điểm công nợ. Tính đến ngày 10/7/2020 ông H và bà A còn nợ ông Nguyễn Quang T -–chủ Hộ kinh doanh Đại lý H số tiền là 124.009.000đ (Một trăm hai mươi bốn triệu không trăm lẻ chín nghìn đồng). Hộ kinh doanh Đại lý H đã nhiều lần cho nhân viên xuống gặp trực tiếp ông H và bà A thanh toán số nợ. Tuy nhiên ông H và bà A lại viện lý do tôm thất, thu được ít nhằm cố tình không thanh toán phần nợ còn thiếu.
Nay ông Nguyễn Quang T – chủ Hộ kinh doanh Đại lý H yêu cầu ông Nguyễn Minh H và bà Trần Thị Nguyệt A có trách nhiệm trả cho Hộ kinh doanh Đại lý H số tiền là 124.009.000đ (Một trăm hai mươi bốn triệu không trăm lẻ chín nghìn đồng) và số tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán tạm tính từ ngày 10/7/2020 đến ngày 10/6/2021 là (124.009.000đ x 0.83% x 11 tháng)= 11.322.021 đồng (Mười một triệu ba trăm hai mươi hai nghìn không trăm mai mươi mốt đồng). Tổng cộng là 135.331.021 đồng (Một trăm ba mươi lăm triệu ba trăm ba mươi mốt nghìn không trăm hai mươi mốt đồng).
Quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán tạm tính từ ngày 10/7/2020 đến ngày 10/6/2021 là (124.009.000đ x 0.83% x 11 tháng)= 11.322.021 đồng.
* Tại bản tự khai ngày 23/11/2021 bị đơn Nguyễn Minh H trình bày ý kiến như sau: Từ 2019 đến tháng 7/2020 ông H, bà A có mua thức ăn tôm của ông Nguyễn Quang T – chủ hộ kinh doanh đại lý H, tuy nhiên do không thanh toán đủ tiền nên ông Nguyễn Quang T – chủ hộ kinh doanh đại lý H đã cắt không giao thức ăn cho ông nữa nên vụ tôm của ông bị thiệt hại, không có tiền để trả cho ông T. Hiện nay ông và bà A còn nợ ông Nguyễn Quang T – chủ hộ kinh doanh đại lý H số tiền 124.009.000 đồng. Đối với yêu cầu của ông Nguyễn Quang T – chủ Hộ kinh doanh Đại lý H yêu cầu ông H và bà Trần Thị Nguyệt A có trách nhiệm trả cho ông Nguyễn Quang T – chủ Hộ kinh doanh Đại lý H số tiền là 124.009.000đ thì ông đồng ý trả số tiền này nhưng yêu cầu được trả theo khả năng, theo vụ tôm do hoàn cảnh khó khăn. Còn đối với số tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán tạm tính từ ngày 10/7/2020 đến ngày 10/6/2021 là (124.009.000đ x 0.83% x 11 tháng)= 11.322.021 đồng thì ông không đồng ý.
* Bà Trần Thị Nguyệt A vắng mặt tại phiên tòa. Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng nhưng bị đơn bà A không đến Tòa án tham gia tố tụng hoặc gửi văn bản trình bày ý kiến, yêu cầu của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: ông Nguyễn Quang T – Chủ hộ kinh doanh đại lý H khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Minh H và bà Trần Thị Nguyệt A trả số tiền nợ còn thiếu theo Hợp đồng mua bán thức ăn và thuốc thủy sản đã ký kết giữa hai bên nên đây là quan hệ pháp luật “Tranh chấp Hợp đồng mua bán”. Đây là quan hệ tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn ông H, bà A có đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã V, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu. Do đó, Tòa án nhân dân thành phố B thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt; đồng bị đơn ông Nguyễn Minh H và bà Trần Thị Nguyệt A đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ theo điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1, 3 Điều 228, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự, vẫn tiến hành xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Xét yêu cầu của nguyên đơn yêu cầu ông Nguyễn Minh H và bà Trần Thị Nguyệt A có trách nhiệm trả cho ông Nguyễn Quang T – chủ Hộ kinh doanh Đại lý H số tiền là 124.009.000 đồng:
Căn cứ giao dịch mua bán thức ăn và thuốc thủy sản và sổ theo dõi nợ thì thấy rằng: Giữa ông T, ông H, bà A có việc thỏa thuận mua bán thức ăn và thuốc thủy sản với nhau, có ký hợp đồng mua bán, có đối chiếu công nợ giữa các bên, đến ngày 31/7/2020 ông H, bà A còn nợ ông T số tiền là 124.009.000 đồng. Tại bản tự khai ngày 23/11/2021 ông Nguyễn Minh H thừa nhận còn thiếu ông Nguyễn Quang T – chủ Hộ kinh doanh Đại lý H số tiền là 124.009.000 đồng nên đây là tình tiết, sự kiện không cần phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Quá trình chuẩn bị xét xử, Tòa án đã thực hiện việc tống đạt các văn bản tố tụng và triệu tập bà A để giải quyết vụ án, bà A đã trực tiếp ký nhận các văn bản tố tụng của Tòa án đồng thời xác nhận là vợ của ông H nhưng bà A vắng mặt được xem là đã từ bỏ quyền, nghĩa vụ tham gia tố tụng của mình.
Hợp đồng mua hàng được ký kết có nội dung và hình thức đúng quy định pháp luật, được hai bên tự nguyện giao kết. Mặc dù bà A vắng mặt trong toàn bộ quá trình tố tụng nhưng căn cứ theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như hợp đồng mua bán, bảng đối chiếu xác nhận công nợ ngày 31/7/2020, chứng minh nhân dân của bà A, sổ ghi nợ, lời trình bày của ông H, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định ông H và bà A có giao dịch mua thức ăn tôm và thuốc thủy sản của ông Nguyễn Quang T – chủ hộ kinh doanh đại lý H và đến thời điểm hiện nay ông H, bà A còn thiếu ông T số tiền là 124.009.000 đồng, nên yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Quang T là có cơ sở nên được chấp nhận.
[2.2] Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu ông H, bà A trả số tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán tạm tính từ ngày 10/7/2020 đến ngày 10/6/2021 là (124.009.000đ x 0.83% x 11 tháng)= 11.322.021đ, do ngày 25/01/2022 đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đã rút yêu cầu khởi kiện đối với nội dung này. Xét thấy đây là sự tự nguyện, không trái với quy định pháp luật nên căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu này.
[3] Về án phí: Ông Nguyễn Quang T không phải chịu án phí. Do ông H, bà A phải có nghĩa vụ trả nợ nên phải chịu án phí tương ứng với nghĩa vụ phải thực hiện.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238; Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Áp dụng Điều 430, 440 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
Áp dụng khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Quang T – Chủ hộ kinh doanh Đại lý H đối với ông Nguyễn Minh H và bà Trần Thị Nguyệt A đối với số tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán tạm tính từ ngày 10/7/2020 đến ngày 10/6/2021 là 11.322.021 đồng.
2. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Quang T – chủ hộ kinh doanh đại lý H đối với ông Nguyễn Minh H và bà Trần Thị Nguyệt A.
3. Buộc ông Nguyễn Minh H và bà Trần Thị Nguyệt A có trách nhiệm thanh toán cho ông Nguyễn Quang T – chủ hộ kinh doanh đại lý H số tiền 124.009.000 đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong các khoản tiền trên đây, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu thêm tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo lãi suất phát sinh do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
4. Về án phí:
Buộc ông Nguyễn Minh H và bà Trần Thị Nguyệt A phải nộp án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 6.200.450 đồng.
Ông Nguyễn Quang T – chủ hộ kinh doanh đại lý H không phải chịu án phí. Ông Nguyễn Quang T – chủ hộ kinh doanh đại lý H đã nộp tạm ứng án phí số tiền 3.383.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0006972 ngày 06 tháng 10 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Bạc Liêu, nay được hoàn lại toàn bộ.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 của Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án Dân sự.
Án xử sơ thẩm công khai, đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định.
Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán số 11/2022/DS-ST
Số hiệu: | 11/2022/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bạc Liêu - Bạc Liêu |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 01/03/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về