Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán, hợp đồng vay tài sản số 134/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 134/2022/DS-PT NGÀY 05/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN, HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 74/2022/TLPT-DS ngày 13/5/2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán, hợp đồng vay tài sản”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2022/DS-ST ngày 18/02/2022 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh An Giang bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 108/2022/QĐ-PT ngày 27/6/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: ông A, sinh năm 1973; nơi cư trú: ấp T 2, xã S, huyện C, tỉnh An Giang, có mặt.

- Bị đơn: ông B, sinh năm 1976; nơi cư trú: số 44, tổ 48, ấp H 4, thị trấn P, huyện T, tỉnh An Giang, có mặt.

- Người có quyền lơi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông C (Nam), sinh năm 1974; nơi cư trú: ấp H 3, thị trấn P, huyện T, tỉnh An Giang, có mặt.

2. Ông D, sinh năm 1976; nơi cư trú: ấp A, xã H, huyện C, tỉnh An Giang, có mặt.

3. Ông H; nơi cư trú: ấp H 3, thị trấn P, huyện T, tỉnh An Giang, vắng mặt.

- Người làm chứng: ông G, sinh năm 1963; nơi cư trú: ấp C, xã Đ, thành phố Cà Mau, có mặt.

Người kháng cáo: bị đơn ông B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung án sơ thẩm:

Trong đơn khởi kiện ngày 12/05/2020, tờ tự khai ngày 13/5/2020, biên bản hòa giải, biên bản đối chất và lời khai tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn ông A trình bày:

Vào tháng 3 năm 2019 ông có hợp đồng bơm cát cho ông B, với khối lượng 20.000m3,, giá 01 khối lượng cát là 75.000 đồng, hai bên có ký hợp đồng ngày 20/03/2019 được công chứng tại văn phòng công chứng Nguyễn Thành Quốc. Công chứng số 352, quyển số 01/TP/CC/SCC/HĐGD. Tổng giá trị hợp đồng là 1.500.000.000 đồng (một tỷ, năm trăm triệu đồng). Thời gian thực hiện hợp đồng là 01 tháng kể từ ngày 20/03/2019 đến ngày 15/4/2019. Thời gian đầu, ông trực tiếp bơm cát cho ông B và ông B có ứng tiền cho ông. Thời gian sau, ông mới thỏa thuận với ông H và ông D thực hiện việc bơm cát cho ông B, đó là hợp đồng thỏa thuận giữa ông và ông D, ông H. Ông thừa nhận sau khi thực hiện bơm cát xong thì vào thời gian khoảng 6 năm 2019 giữa ông, G (là người chứng kiến), ông C, ông H, ông D, ông B ngồi lại thương lượng số tiền còn thiếu lại theo hợp đồng. Tại buổi thương lượng thì thỏa thuận theo hợp đồng giữa ông và ông D, ông H xong, còn số tiền theo hợp đồng bơm cát giữa ông và ông B thì chưa thỏa thuận xong, hai bên còn lấn cấn với số tiền 200.000.000 đồng. Vì theo hợp đồng bơm cát thì ông B chuyển trả cho ông nhiều lần với số tiền 800.000.000 đồng còn lại 700.000.000 đồng, nhưng tại buổi thương lượng giữa các bên, thì phía ông D nói có nhận của ông từ ông B số tiền 500.000.000 đồng nhưng việc này ông B không cho ông biết mà tự trả tiền cho ông D, nhưng ông cũng đồng ý việc ông D nhận số tiền 500.000.000 đồng. Vậy theo hợp đồng thì ông B còn thiếu tiền ông. Sau đó ông và ông B về huyện T ghé quán cà phê ngồi thương lượng tiếp và xác định ông B còn thiếu ông số tiền 200.000.000 đồng.

Sau buổi thương lượng đó ông B có chuyển trả qua ngân hàng cho ông số tiền qua các lần như sau: ngày 3/7/2019 chuyển trả 49.978.000 đồng (nội dung chuyển trả ghi “B nộp tiền bơm cát”), ngày 20/12/2019 chuyển 40.000.000 đồng (nội dung ghi “B nộp TM TK”), ngày 15/1/2020 chuyển 10.000.000 đồng (nội dung ghi “B nộp TM TK”). Tổng cộng là 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng), theo đó ông B còn thiếu lại 100.000.000 đồng. Ông đã nhiều lần gặp mặt nhắc nhở nhưng ông B thất hứa nhiều lần, nại ra nhiều lý do và không thực hiện trả dứt số tiền còn lại. Tại đơn khởi kiện ông trình bày là gần tết ông B có trả cho ông số tiền 10.000.000 đồng, tuy nhiên tại phiên tòa hôm nay ông xác định lại là do sai sót trong khâu đánh đơn kiện nên trong đơn ghi số tiền 90.000.000 đồng. Nay ông A yêu cầu ông B trả cho ông số tiền 90.000.000 đồng (chín mươi triệu đồng).

Tại bản tường trình ngày 6/6/2020 bị đơn ông B trình bày: Vào ngày 20/3/2019 ông đứng ra ký hợp đồng bơm cát với ông A khối lượng 20.000m3, , giá 01 khối lượng cát là 75.000đồng, hai bên có ký hợp đồng ngày 20/03/2019 được công chứng tại văn phòng công chứng Nguyễn Thành Quốc. Công chứng số 352, quyển số 01/TP/CC/SCC/HĐGD. Tổng giá trị hợp đồng là 1.500.000.000 đồng (một tỷ, năm trăm triệu đồng). Thời giC thực hiện hợp đồng là 01 tháng kể từ ngày 20/03/2019 đến ngày 20/4/2019, tại buổi ký hợp đồng ông có đưa tiền trước cho ông A số tiền 300.000.000 đồng, ông A có bơm cát được hơn 1000m3 cát thì ngưng do ông A nói là lỗ, hai bên có cự cải có nhờ Công an thị trấn P giải quyết. Sau đó, chủ đầu tư là ông C và ông mới gặp ông A yêu cầu tiếp tục thực hiện việc bơm cát. Ông A tiếp tục bơm cát, ông có đưa tiền cho ông A được số tiền 1.150.000.000 đồng. Hợp đồng thực hiện còn lại 20% thì ông mới biết việc ông A nhờ ông D và ông H bơm cát. Sau khi ông A thực hiện bơm cát xong thì vào khoảng thời gian tháng 6 năm 2019 tại quán Vincom ở Long Xuyên, các bên gồm ông C và ông A, ông H, ôngD và ông, ông G (người chứng kiến) mới ngồi thương lượng. Tại buổi thương lượng, các bên xác nhận số tiền còn thiếu lại theo hợp đồng và ông C đã đưa đủ số tiền 350.000.000 đồng cho ông D và hai bên giữa ông và ông A xé bỏ hợp đồng, thCh toán xong. Nay trước yêu cầu khởi kiện của ông A yêu cầu trả số tiền 90.000.000 đồng thì ông không đồng ý, vì ông đã thanh toán xong theo hợp đồng.

Tại đơn đơn yêu cầu phản tố ngày 26/9/2020 của ông B có trình bày: Vào tháng 11 năm 2019, ông A có điện thoại cho ông và nói việc bơm cát lỗ lã nên có hỏi mượn ông số tiền 50.000.000 đồng, hai bên không có làm giấy tờ chỉ nói qua điện thoại. Thời điểm ông A mượn tiền thì ông không có đủ số tiền 50 triệu. Ông chuyển trước qua ngân hàng cho ông A số tiền 40.000.000đồng vào ngày 20/12/2019 (nội dung ghi “B nộp TM”) đến ngày 15/01/2020 chuyển qua ngân Hng tiếp số tiền 10.000.000 đồng (nội dung ghi “B nộp CT”), tổng cộng là 50.000.000 đồng. Nay ông yêu cầu ông A trả số tiền đã mượn là 50.000.000 đồng. Việc mượn tiền này không có liên quan đến hợp đồng bơm cát.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Ông C, (Nam) trình bày: ông là em ruột của ông B, để thực hiện bơm cát cho công trình, ông mới nhờ ông B ký hợp đồng với ông A thực hiện bơm cát. Sau khi ký hợp đồng xong ông A bơm cát được một ít thì ngưng. Tiếp theo thì chỗ ông D mới thực hiện bơm cát tiếp cho công trình. Sau khi bơm cát xong theo đó còn thiếu ông D số tiền 350.000.000 đồng.Tại quán Vincom, các bên mới ngồi tính toán hợp đồng thì xác định còn thiếu 350.000.000 đồng ông mới đưa tiền cho ông B trả cho ông D số tiền 350.000.000 đồng (Ba trăm năm mươi triệu đổng). Các bên thương lượng xong, sau đó ông D xé hợp đồng, coi như thỏa thuận xong các bên ra về, không hiểu lý do vì sao sự việc kéo dài gần hơn 01 năm nay ông A lại khởi kiện ông B đòi số nợ này.

2. Ông D trình bày: Ông không có quan hệ bà con gì với ông A, ông B.

Trước đây vào tháng 3 năm 2019 ông có thực hiện bơm cát cùng với ông A, trước đó thì chỗ ông A có bơm cát trước cho công trình nhưng chưa xong thì ông mới tiếp nhận bơm số cát còn lại. Sau khi bơm cát xong thì ông A không trả tiền cho ông, khi đó ông mới phát hiện công trình này của ông B, ông C mới điện cho ông B để yêu cầu trả số tiền bơm cát còn thiếu. Sau đó tại Quán ở Vincom các bên (gồm anh G (chứng kiến), ông B, ông A, ông D và ông H và ông C) mới ngồi lại thỏa thuận hợp đồng. Khi đó ông B mới trả cho ông số tiền là 350.000.000 đồng. Hai bên tất toán hợp đồng xong và ông xé hợp đồng bơm cát, coi như hợp đồng đã xong.

3. Ông G trình bày: Ông cùng làm chung với ông B, ông B có ký hợp đồng bơm cát với ông A. Ông thừa nhận tại quán Vincom ở Long Xuyên ông chứng kiến việc các bên tính toán hợp đồng, chính ông B đưa tiền trả cho ông D số tiền 350.000.000 đồng, ông D mới xé hợp đồng mua bán cát giữa các bên.

4. Ông H: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt và niêm yết hợp lệ thông báo thụ lý, các thông báo về phiên họp kiểm tra về việc giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo về việc thu thập được tài liệu, chứng cứ và thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ nhưng ông H v n vắng mặt các buổi phiên họp giao nộp chứng cứ và hòa giải. Tòa án cũng tiến Hnh xác minh lại sự vắng mặt của ông H tại địa phương. Qua xác minh tại địa phương thì ông H hiện nay hộ khẩu thường trú v n ở ấp H 3, thị trấn P, huyện T, An Giang, nhưng ông H vắng mặt tại nhà nên không lấy lời khai được Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2022/DS-ST ngày 18/02/2022 của Tòa án nhân dân huyện T đã quyết định:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông A.

Buộc ông B phải có nghĩa vụ trả cho ông A số tiền 90.000.000 đồng (Chín mươi triệu đồng).

Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông B đối với yêu cầu phản tố với số tiền 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng) Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo và quyền yêu cầu thi hành án theo quy định.

Ngày 01 tháng 3 năm 2022, bị đơn ông B kháng cáo, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm:

- Xem xét giữa mua bán có hợp đồng ký, giao nhận từng đợt cộng dồn đã thanh toán, hủy bỏ hợp đồng là không còn trách nhiệm. Không đồng ý với Bản án số 04/2022/DSST ngày 18/02/2022 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh An Giang.

- Buộc ông A trả cho ông B số tiền: 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng) tháng 01/2020, cách xa hợp đồng quyết toán tháng 7/2019 không liên quC đến việc mua bán cát, vì ký hiệu ngân hàng (TM-CK) dịch (tiền mặt chuyển khoản). Ông A nói (TM-CK) là trả tiền bơm cát là không đúng.

Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn v n giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn v n giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Ông B trình bày tranh luận: hợp đồng bơm cát giữa ông và ông A đã thanh toán xong vào cuối tháng 6 năm 2019 tại quán Vincom nên ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông A. Ông A có mượn tiền của ông 50.000.000 đồng theo 02 giấy nộp tiền ngày 20/12/2019 và ngày 15/01/2020. Vì vậy, đề nghị không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông A, buộc ông A phải trả cho ông số tiền 50.000.000 đồng.

Ông A trình bày tranh luận: đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng:

Về việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng: Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã chấp hành đúng và đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý đến khi xét xử.

Về việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: các đương sự, người tham gia tố tụng khác đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án dân sự:

Qua xem xét hồ sơ vụ án ở giai đoạn sơ thẩm nhận thấy: biên bản nghị án ngày 18 tháng 02 năm 2022 kết thúc lúc 10 giờ 30 phút nhưng biên bản phiên tòa kết thúc lúc 10 giờ là không chính xác về thời gian, cần rút kinh nghiệm.

Về nội dung: Hợp đồng bơm cát ngày 20/3/2019 được các bên ký kết tại Văn phòng công chứng Nguyễn Thành Quốc, tổng giá trị hợp đồng là 1.500.000.000 đồng (một tỷ, năm trăm triệu đồng), thời gian thực hiện hợp đồng là 01 tháng kể từ ngày 20/03/2019 đến ngày 20/4/2019. Các đương sự thừa nhận vào cuối tháng 6/2019 tại Vincom có mặt A, B, C, D, G tiến hành thương lượng thanh toán hợp đồng. Tại biên bản đối chất ngày 06 tháng 6 năm 2019 và ngày 04 tháng 12 năm 2019, ông B xác định đã thanh toán số tiền 350.000.000 đồng cho ông D. Nhưng tại biên bản đối chất ngày 04 tháng 12 năm 2019, ông C và ông D xác định giao nhận số tiền 150.000.000 đồng tại Vincom. Do vậy, ông A cho rằng còn nợ 200.000.000 đồng, sau khi trừ các lần chuyển khoản, ông B còn nợ 90.000.000 đồng là có cơ sở. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông A là có căn cứ.

Ông B phản tố cho rằng ông A nợ ông 50.000.000 đồng nhưng nội dung 02 lần chuyển khoản không ghi rõ, ông A không thừa nhận nên không có căn cứ chấp nhận.

Kháng cáo của ông B không có cơ sở xem xét Tuy nhiên, Biên lai thu tạm ứng án phí của ông A số 0006896 ngày 13/5/2020 nhưng bản án sơ thẩm tuyên nhầm Biên lai số 0004529 ngày 17/10/2019; ông B đã nộp 1.250.000 đồng tạm ứng án phí đối với yêu cầu phản tố tại Biên lai số 0007355 ngày 13/5/2021 nhưng bản án sơ thẩm không khấu trừ, cần phải sửa bản án sơ thẩm.

Bởi các lẽ trên, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của ông B, sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2022/DS-ST ngày 18 tháng 02 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện T về phần án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả trCh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Về tính hợp pháp của kháng cáo: ông B thực hiện quyền kháng cáo trong thời hạn luật định nên Tòa án nhân dân tỉnh An Giang thụ lý, giải quyết theo trình tự phúc thẩm theo quy định tại Điều 273, Điều 285 Bộ luật tố tụng dân sự.

Ông H đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vắng mặt nên căn cứ Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử phúc thẩm v n tiến hành xét xử.

[2] Xét nội dung kháng cáo:

Hợp đồng mua bán tài sản (mua bán cát) giữa ông A và ông B xác lập ngày 20/3/2019 tại Văn phòng công chứng Nguyễn Thành Quốc, tổng giá trị hợp đồng là 1.500.000.000 đồng (một tỷ, năm trăm triệu đồng), thời gian thực hiện hợp đồng là 01 tháng kể từ ngày 20/03/2019 đến ngày 20/4/2019. Các bên thừa nhận không có biên bản nghiệm thu nhưng đều thống nhất bên A ông A đã thực hiện bơm đủ khối lượng cát theo hợp đồng. Các bên chỉ trCh chấp về nghĩa vụ trả tiền. Ông A khởi kiện yêu cầu ông B trả số tiền còn nợ là 90.000.000 đồng.

Ông B cho rằng đã thanh toán hết giá trị hợp đồng nên không còn nợ ông A, ngược lại ông A còn nợ ông 50.000.000 đồng.

Qua tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm cùng với xem xét toàn bộ tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy:

[2.1] Về hợp đồng mua bán tài sản giữa ông A và ông B: các bên chỉ tranh chấp về nghĩa vụ trả tiền. Việc thanh toán đầy đủ tiền cho ông A theo hợp đồng là nghĩa vụ của bên B ông B. Vì vậy, ông B phải có nghĩa vụ chứng minh.

[2.1.1] Ông A thừa nhận ông B đã chuyển trả cho ông nhiều lần với số tiền 800.000.000 đồng. Tại buổi thương lượng vào tháng 6 năm 2019 tại quán Vincom, ông D có nói nhận từ ông B 500.000.000 đồng nên ông cũng đồng ý. Sau buổi thương lượng, ông B chuyển trả qua ngân hàng cho ông: ngày 03/7/2019 chuyển 49.978.000 đồng (nội dung “B nộp tiền bơm cát”), ngày 20/12/2019 chuyển 40.000.000 đồng (nội dung “B nộp TM TK”), ngày 15/01/2020 chuyển 10.000.000 đồng (nội dung “B nộp CT”). Tại đơn khởi kiện, ông A trình bày gần tết ông B có trả 10.000.000 đồng (là sai sót trong đánh máy). Theo giá trị hợp đồng, ông A thừa nhận ông B đã thanh toán 1.410.000.000 đồng, còn nợ 90.000.000 đồng.

[2.1.2] Ông B cho rằng đã thanh toán cho ông A 1.150.000.000 đồng, còn nợ 350.000.000 đồng. Số tiền 350.000.000 đồng này đã thanh toán cho ông D tại quán Vincom vào cuối tháng 6/2019, nên không còn nợ, xé bỏ hợp đồng. Tuy nhiên, ngoài lời khai của mình và của những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, ông B không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh đã hoàn thành nghĩa vụ trả tiền theo hợp đồng. Trong khi đó, lời khai của ông B không phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác; lời khai của ông D, ông C từng lúc, từng nơi không thống nhất. Cụ thể:

[2.1.2.1] Ông B cho rằng đã thanh lý hợp đồng tại quán Vincom vào cuối tháng 6 năm 2019 (Tờ tường trình ngày 06/6/2020 - BL 37, 38; đơn phản tố ngày 28/9/2020 - BL 75), nhưng vào ngày 03/7/2019 ông B chuyển trả ông A số tiền 49.978.000 đồng (nội dung “B nộp tiền bơm cát”) là có mâu thu n.

[2.1.2.2] Ông B tường trình là ông đưa tiền cho ôngD là 350.000.000 đồng (Tờ tường trình ngày 06/6/2020 - BL 37, 38). Biên bản đối chất ngày 16/6/2020 (BL 47, 48), ông B và ông D trình bày ông B chính là người trả ông D 350.000.000 đồng tại quán ở Vincom, ông C trình bày số tiền 350.000.000 đồng là ông đưa cho ông B trả cho ông D tại quán Vincom. Biên bản đối chất ngày 25/5/2021 (BL 114, 115), ông B trình bày số tiền 350.000.000 đồng là ông C đưa ông D tại buổi thương lượng. Biên bản đối chất ngày 04/12/2020 (BL 86, 87), ông C và ông D trình bày tại quán Vincom, ông D tiếp tục nhận tiền từ ông C là 150.000.000 đồng.

[2.1.2.3] Tại phiên tòa phúc thẩm, ông C và ôngD trình bày là tại quán Vincom ông D có nhận từ ông C số tiền 150.000.000 đồng hay 200.000.000 đồng thì hai ông không nhớ rõ. Người làm chứng G trình bày: ông là tài xế của ông C, tại quán Vincom, ông chỉ chứng kiến thấy ông D xé tờ giấy, nghe nói là hợp đồng nên ông nhặt lên nhưng không đọc được gì, sau đó ông có việc nên đi nơi khác.

[2.1.3] Từ những căn cứ trên cho thấy, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông A, buộc ông B trả cho ông A số tiền 90.000.000 đồng là có căn cứ.

[2.2] Đối với yêu cầu phản tố của ông B: ông B cho rằng vào tháng 11 năm 2019, ông A có điện thoại cho ông và nói việc bơm cát lỗ nên có hỏi mượn ông số tiền 50.000.000 đồng, hai bên không có làm giấy tờ chỉ nói qua điện thoại.

Thời điểm ông A mượn tiền thì ông không có đủ số tiền 50 triệu. Ông chuyển trước qua ngân hàng cho ông A số tiền 40.000.000 đồng vào ngày 20/12/2019 (nội dung ghi “B nộp TM”) đến ngày 15/01/2020 chuyển qua ngân hàng tiếp số tiền 10.000.000 đồng (nội dung ghi “B nộp CT”), tổng cộng là 50.000.000 đồng. Nay ông yêu cầu ông A trả số tiền đã mượn là 50.000.000 đồng.

Yêu cầu phản tố của ông B không được ông A thừa nhận. Ông B cũng không cung cấp chứng cứ để chứng minh có xác lập hợp đồng vay tài sản với ông A. Các giao dịch chuyển khoản cũng không ghi rõ nội dung chuyển tiền. Mặt khác, tại Biên bản đối chất ngày 16/6/2020 và ngày 04/12/2020, ông B cũng từng có ý kiến rút lại yêu cầu phản tố, khi nào có chứng cứ khởi kiện sau. Do vậy, yêu cầu phản tố của ông B không có cơ sở để xem xét chấp nhận.

[2.3] Do vậy, kháng cáo của ông B không có cơ sở để xem xét. Lẽ ra, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm đã có sai sót trong xem xét và tuyên phần án phí dân sự sơ thẩm. Cụ thể: Biên lai thu tạm ứng án phí của ông A số 0006896 ngày 13/5/2020 nhưng bản án sơ thẩm tuyên nhầm Biên lai số 0004529 ngày 17/10/2019; ông B đã nộp 1.250.000 đồng tạm ứng án phí đối với yêu cầu phản tố tại Biên lai số 0007355 ngày 13/5/2021 nhưng bản án sơ thẩm không khấu trừ số tiền này vào nghĩa vụ án phí dân sự sơ thẩm của ông B. Chính vì thế, Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện T đối với phần tuyên án phí dân sự sơ thẩm.

Đối với sai sót về thời gian kết thúc Biên bản nghị án và Biên bản phiên tòa ngày 18 tháng 02 năm 2022: yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm rút kinh nghiệm.

[3] Về án phí phúc thẩm: do sửa bản án dân sự sơ thẩm nên căn cứ khoản 2 Điều 148 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, ông B không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông B.

Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2022/DS-ST ngày 18 tháng 02 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện T.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông A.

Buộc ông B phải có nghĩa vụ trả cho ông A số tiền 90.000.000 đồng (chín mươi triệu đồng).

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông B đối với số tiền 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng) 3. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Ông A không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, được nhận lại số tiền 2.250.000 đồng (hai triệu hai trăm năm mươi ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0006896 ngày 13 tháng 5 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.

Ông B phải chịu 4.500.000đ (bốn triệu năm trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm và 2.500.000 đồng (hai triệu năm trăm ngàn đồng) đối với yêu cầu phản tố không được chấp nhận. Ông B được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp 1.250.000 đồng (một triệu hai trăm năm mươi ngàn đồng) theo Biên lai thu số 0007355 ngày 15 tháng 5 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T. Ông B còn phải chịu 5.750.000 đồng (năm triệu bảy trăm năm mươi ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về án phí dân sự phúc thẩm:

Ông B không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, được nhận lại 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0002990 ngày 02 tháng 3 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán, hợp đồng vay tài sản số 134/2022/DS-PT

Số hiệu:134/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 05/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;