Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 96/2020/KDTM-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 96/2020/KDTM-ST NGÀY 30/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

Ngày 30 tháng 9 năm 2020, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 03/2020/TLST-KDTM ngày 06 tháng 01 năm 2020 về “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 242/2020/QĐXXST-KDTM ngày 21 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 170/2020/QĐST- KDTM ngày 08 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: A Địa chỉ: nhóm A1, khu công nghiệp A2, phường A3, quận A4, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông A5, trú tại: đường số C, Phường D, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (Văn bản ủy quyền số 142/UQ-HT ngày 11 tháng 12 năm 2019) có mặt.

2. Bị đơn: B Địa chỉ: đường B1, Phường B2, quận B3, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông B4, trú tại: xã C1, huyện C2, Thành phố Hồ Chí Minh là người đại diện theo pháp luật của bị đơn (Tổng giám đốc B) vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 11 tháng 12 năm 2019 nguyên đơn là A và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn là ông A5 đều trình bày: Ngày 01/01/2018, giữa A và B (gọi tắt là B) có ký Hợp đồng nguyên tắc cung cấp vật liệu xây dựng số 50/2018/HĐKT/B-A. Theo hợp đồng, Công ty Trách nhiệm hữu hạn A bán cho Công ty B các sản phẩn hàng hóa, thiết bị, vật liệu xây dựng theo thỏa thuận của hai bên. Ngày 23/5/2019, hai bên ký Phụ lục hợp đồng số 01 điều chỉnh thời hạn thanh toán theo khoản 3.3 Điều 3 Hợp đồng nguyên tắc số 50/2018/HĐKT/B-A.

Ngày 22/5/2019, Công ty B có đơn đặt hàng mua 01 bồn nước inox 25m3/25.000 lít nằm và 02 bồn nước inox 20m3/20.000 lít nằm, tổng giá trị hợp đồng là 167.742.000 đồng. Ngày 28/5/2020, A giao hàng và xuất hóa đơn, chứng từ thanh toán đầy đủ cho Công ty B. Căn cứ Phụ lục hợp đồng số 01 ngày 23/5/2019 thì Công ty B thanh toán cho A 03 đợt:

Tạm ứng: Sau khi hai bên xác nhận đơn hàng, A gửi giấy đề nghị tạm ứng, Công ty B tạm ứng cho A 20% giá trị đơn đặt hàng trước khi giao hàng tương đương 33.548.000 đồng. Số tiền này Công ty B đã thanh toán cho A vào ngày 24/5/2019.

Đợt 1: Sau khi Công ty B nhận được hàng hóa, Công ty B thanh toán cho A 60% giá trị của lô hàng tương đương 100.646.000 đồng trong vòng 30 ngày, chậm nhất đến hết ngày 28/6/2019 Công ty B phải thanh toán số tiền này cho A. Tuy nhiên, Công ty B không thanh toán theo hợp đồng, vi phạm mục 2.2 Điều 2 Phụ lục hợp đồng số 01.

Đợt 2: Công ty B thanh toán 20% còn lại tương đương 33.548.000 đồng trong vòng 60 ngày kể từ khi thanh toán tiền đợt 2, tức chậm nhất đến hết ngày 28/8/2019 phải thanh toán hết cho A.

Ngày 23/8/2019 A có Công văn số 086/CV-HT gửi Công ty B yêu cầu thanh toán số tiền còn thiếu nhưng Công ty B cố tình trốn tránh, đến ngày 04/10/2019 Công ty B mới thanh toán tiếp số tiền 30.000.000 đồng.

Ngày 14/10/2019, A tiếp tục gửi Công văn số 113/CV-HT yêu cầu Công ty B thanh toán số tiền còn lại 104.194.000 đồng nhưng cho đến nay Công ty B vẫn cố tình không thanh toán cho A. Vì vậy, nguyên đơn khởi kiện và người đại diện hợp pháp của nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết buộc B thanh toán cho Công ty TNHH A Việt Nam số tiền nợ gốc là 104.194.000 đồng và bồi thường vi phạm điều khoản thanh toán theo hợp đồng số tiền là 104 ngày (từ ngày 29/8/2019 đến ngày 11/12/2019) x 1% x 104.193.600 đồng = 108.361.344 đồng. Đến ngày 12 tháng 8 năm 2020 A có đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện không yêu cầu B bồi thường vi phạm điều khoản thanh toán số tiền 108.361.344 đồng. A yêu cầu B trả số tiền 104.194.000đ (Một trăm lẻ bốn triệu một trăm chín mươi bốn nghìn) đồng một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Bị đơn B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần tự khai, hai lần thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và xét xử nhưng trong suốt quá trình tố tụng, B vẫn vắng mặt nên không có lời khai tại Tòa án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Từ khi Tòa án nhân dân quận Tân Bình thụ lý vụ án đến nay, trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng được thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về thời hạn chuẩn bị xét xử, Tòa án có vi phạm Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự, tuy nhiên vi phạm này không làm thay đổi bản chất vụ án, không làm ảnh hưởng đến tính khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác khi giải quyết vụ án nên Viện kiểm sát chỉ kiến nghị để Tòa án rút kinh nghiệm.

Về việc giải quyết vụ án: Nhận thấy yêu cầu khởi kiện của A là có cơ sở và phù hợp với quy định của pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tuyên buộc B phải trả cho A số tiền nợ gốc 104.194.000 đồng ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Đề nghị đình chỉ yêu cầu tiền bồi thường của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: A khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc B phải trả tiền mua hàng theo hợp đồng đã ký kết. Do đó đây là tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau theo quy định tại khoản 1 Điều 30 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn có trụ sở tại địa chỉ: Tầng 3, khối A, 31-33 đường Phan Huy Ích, Phường 15, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh nên theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.

[1.2] B (là bị đơn trong vụ án, không có yêu cầu phản tố) đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt B.

[1.3] Đối với yêu cầu B bồi thường vi phạm điều khoản thanh toán số tiền 108.361.344 đồng, mặc dù tại đơn khởi kiện ngày 11 tháng 12 năm 2019, A đã yêu cầu Tòa án giải quyết buộc B bồi thường vi phạm số tiền 108.361.344 đồng, nhưng đến ngày 12 tháng 8 năm 2020 A có đơn xin rút yêu cầu bồi thường số tiền 108.361.344 đồng. Xét thấy, việc rút yêu cầu nói trên là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định tại Điều 5 và khoản 2 Điều 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217 và khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của A về việc buộc B bồi thường số tiền 108.361.344 đồng; nếu sau này A khởi kiện lại và thời hiệu khởi kiện vẫn còn thì sẽ giải quyết bằng vụ án khác. A không phải chịu án phí đối với yêu cầu đã đình chỉ xét xử.

[1.4] Về việc tham gia phiên tòa của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình: Trong vụ án này Tòa án có tiến hành thu thập chứng cứ bằng hình thức xác minh trụ sở đăng ký hoạt động của bị đơn tại Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh. Theo quy định tại khoản 2 Điều 21 của Bộ luật Tố tụng dân sự và hướng dẫn tại khoản 1 Điều 7 Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-VKSNDTC- TANDTC ngày 01/8/2012 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao, trường hợp này Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình phải tham gia phiên tòa theo quy định.

[2] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy:

[2.1] Tại thời điểm giao kết Hợp đồng nguyên tắc cung cấp vật liệu xây dựng số: 50/2018/HĐKT/B-A ngày 01/01/2018 và Phụ lục hợp đồng 01 ngày 23/5/2019 giữa A và B, chủ thể tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện, có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự, hợp đồng đều do người đại diện theo pháp luật ký kết. Hình thức của hợp đồng được lập bằng văn bản. Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội và phù hợp với ngành nghề đăng ký kinh doanh của các bên nên xác định hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết, là căn cứ phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên theo quy định tại Điều 401 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

[2.2] Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như lời khai của đại diện nguyên đơn, thể hiện giữa B (bên A) A (bên B) có giao kết Hợp đồng nguyên tắc cung cấp vật liệu xây dựng số 50/2018/HĐKT/B-A ngày 01/01/2018 và Phụ lục hợp đồng 01 ngày 23/5/2019. Theo đó, B có đơn đặt hàng mua của A các sản phẩn hàng hóa, thiết bị, vật liệu xây dựng là 01 bồn nước inox 25m3/25.000 lít nằm và 02 bồn nước inox 20m3/20.000 lít nằm có giá trị là 167.742.000 đồng. Thanh toán làm 03 đợt, đợt tạm ứng: Sau khi hai bên xác nhận đơn hàng, bên B gửi giấy đề nghị tạm ứng cho bên A, bên A tạm ứng cho bên B 20% giá trị đơn đặt hàng trước khi giao hàng tương đương 33.548.000 đồng; đợt 1: Sau khi bên A nhận được hàng hóa, bên A thanh toán cho bên B 60% giá trị của lô hàng tương đương 100.646.000 đồng trong vòng 30 ngày, kể từ thời điểm bên A nhận được hồ sơ thanh toán hợp lệ của bên B; đợt 2: Bên A thanh toán cho bên B 20% giá trị còn lại của lô hàng tương đương 33.548.000 đồng trong vòng 60 ngày kể từ thời điểm bên A thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền đợt 2 cho bên B.

Thực hiện hợp đồng, B đã thanh toán số tiền tạm ứng 33.548.000 đồng vào ngày 24/5/2019. A đã thực hiện việc giao hàng hóa theo Biên bản giao hàng ngày 28/5/2019, đồng thời đã giao đầy đủ chứng từ liên quan đến hàng hóa cho B. Như vậy, cho thấy nguyên đơn đã thực hiện đúng nghĩa vụ trong hợp đồng, do bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên nguyên đơn đã nhiều lần gửi văn bản yêu cầu bị đơn thanh toán số tiền còn lại của hợp đồng. Đến ngày 04/10/2019, bị đơn đã thanh toán số tiền 30.000.000 đồng, còn lại 104.194.000đ (Một trăm lẻ bốn triệu một trăm chín mươi bốn nghìn) đồng đến nay chưa thanh toán.

Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng trong suốt quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, bị đơn vẫn vắng mặt cho thấy bị đơn đã từ bỏ nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh. Do đó, bị đơn phải chịu hậu quả của việc không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ được quy định tại Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Từ những căn cứ và nhận định nêu trên, có cơ sở khẳng định bị đơn đã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền mua hàng theo quy định tại Điều 50; Điều 55 Luật Thương mại năm 2005 và Điều 440 Bộ luật Dân sự năm 2015 nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn thanh toán số tiền mua hàng còn thiếu 104.194.000đ (Một trăm lẻ bốn triệu một trăm chín mươi bốn nghìn) đồng là có cơ sở để chấp nhận.

[2.3] Về thời hạn và phương thức thanh toán: Xét thấy bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền mua hàng, vì vậy nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình về việc giải quyết vụ án là có cơ sở, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, do đó cần chấp nhận.

[4] Về án phí:

[4.1] Nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả số tiền 104.194.000đ (Một trăm lẻ bốn triệu một trăm chín mươi bốn nghìn) đồng được Tòa án chấp nhận toàn bộ nên theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị đơn phải chịu toàn bộ án phí kinh doanh thương mại. Án phí bị đơn phải chịu là 5.209.700đ (Năm triệu hai trăm lẻ chín ngàn bảy trăm) đồng.

[4.2] Hoàn trả lại cho nguyên đơn số tiền 5.313.875đ (Năm triệu ba trăm mười ba nghìn tám trăm bảy mươi lăm) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí Tòa án số AA/2018/0039664 ngày 24 tháng 12 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 5; khoản 2 Điều 21; khoản 1 Điều 30; điểm b khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 2 Điều 71; Điều 91; Điều 147; điểm c khoản 1 Điều 217; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; khoản 2 Điều 244; khoản 1 Điều 273 và khoản 1 Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 117; Điều 401 và Điều 440 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Căn cứ vào Điều 24; Điều 50 và Điều 55 của Luật Thương mại năm 2005; Căn cứ vào Luật Thi hành án dân sự;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn A.

Buộc B phải trả cho A số tiền 104.194.000đ (Một trăm lẻ bốn triệu một trăm chín mươi bốn nghìn) đồng. Thực hiện một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Các bên thực hiện dưới sự giám sát của Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

2. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu bồi thường vi phạm số tiền 108.361.344đ (Một trăm lẻ tám triệu ba trăm sáu mươi mốt nghìn ba trăm bốn mươi bốn) đồng của A, nếu có tranh chấp thì có quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí:

3.1. B phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm là 5.209.700đ (Năm triệu hai trăm lẻ chín ngàn bảy trăm) đồng.

3.2. Hoàn trả lại cho A số tiền 5.313.875đ (Năm triệu ba trăm mười ba nghìn tám trăm bảy mươi lăm) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí Tòa án số AA/2018/0039664 ngày 24 tháng 12 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.

4. Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 96/2020/KDTM-ST

Số hiệu:96/2020/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 30/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;