Bản án 3458/2023/KDTM-ST về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PH THỦ ĐỨC, THÀNH PH H CHÍ MINH

BẢN ÁN 3458/2023/KDTM-ST NGÀY 05/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

Ngày 05 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm công khai Vụ án dân sự thụ lý số: 266/2022/TLST-KDTM ngày 18/11/2022 về việc “Tranh chấp Hợp đồng mua bán hàng hóa”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 4465/2023/QĐXXST-DS ngày 26/7/2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 5215/QĐST-DS ngày 16/8/2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Công ty TNHH C; Mã số doanh nghiệp: 0303126467. Địa chỉ trụ sở: Kho B, Tổng kho xăng dầu Nhà B, thị trấn N, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện ủy quyền:

+ Ông Trần Anh T, sinh năm 1967. Địa chỉ: A đường Đ, Phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

+ Ông Trần Văn T1. Địa chỉ: D13.02 Cao ốc H, số I đường L, xã P, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị đơn: Công ty Cổ phần T3; Mã số doanh nghiệp: 03099849xx. Địa chỉ trụ sở: 99 đường Í, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện pháp luật: Ông Nguyễn Thanh T2, sinh năm 1976; căn cước công dân số: 0790760230xx. Địa chỉ: C đường N, phường L, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Nguyên đơn có đơn xin vắng mặt; Bị đơn và người đại diện pháp luật của bị đơn vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo Đơn khởi kiện, Bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - Công ty TNHH C (sau đây gọi là Công ty C) có ông Trần Anh T, Trần Văn T1 là người đại diện ủy quyền trình bày:

Ngày 07/7/2021, Công ty C và Công ty Cổ phần T3 (sau đây gọi là Công ty T3) ký kết Hợp đồng mua bán số 01/2021/PMG-TBD về việc mua bán chai LPG loại 45kg (99 lít) mới 100%, số lượng 1.000 chai, đơn giá 1.500.000 đồng/chai (đơn giá chưa bao gồm thuế GTGT 10% và đã bao gồm chi phí vận chuyển) với tổng tiền là 1.650.000.000 đồng. Thực hiện hợp đồng, Công ty C đã giao hàng đúng như thỏa thuận và ngày 17/8/2021, Công ty C xuất hóa đơn giá trị gia tăng số 0000809 cho Công ty T3 làm cơ sở thanh toán với số tiền 1.650.000.000 đồng. Tính đến ngày 06/05/2022, Công ty T3 đã thanh toán cho Công ty C tổng cộng số tiền 1.095.000.000 đồng, cụ thể: Ngày 09/7/2021, tạm ứng số tiền 495.000.000 đồng; ngày 08/4/2022 thanh toán 200.000.000 đồng; ngày 27/4/2022, thanh toán 200.000.000 đồng; ngày 06/5/2022, thanh toán 200.00.000 đồng. Tổng số nợ chưa thanh toán là 555.000.000 đồng.

Ngày 06/7/2022, Công ty T3 có Văn bản số 01/2022/NCC-TBD về việc xác nhận số nợ còn lại chưa thanh toán 555.000.000 đồng và đề nghị xin tiếp tục gia hạn công nợ nhưng phía Công ty C đã từ chối gia hạn theo Văn bản số 178/2022/VB-PMG/KD ngày 07/7/2022. Ngày 08/9/2022, Công ty C có Văn bản số 12/2022/VB-PMG/KD về việc yêu cầu Công ty T3 thanh toán số nợ trên trước ngày 30/9/2022, tuy nhiên đến thời điểm khởi kiện (13/10/2022) Công ty T3 vẫn chưa thanh toán. Do đó, Công ty C khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc Công ty T3 phải thanh toán ngay số tiền còn nợ 555.000.000 đồng và lãi suất chậm trả bằng 100% mức lãi suất cho vay của Ngân hàng TMCP X (mức lãi suất 8%/năm) tạm tính từ 27/08/2021 đến ngày 13/10/2022 số tiền 82.768.889 đồng, tổng cộng là: 637.768.889 đồng.

Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, ngày 23/01/2023, Công ty T3 tiếp tục thanh toán số tiền nợ 150.000.000 đồng. Do đó, Công ty C yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc Công ty T3 phải thanh toán ngay số tiền còn nợ 405.000.000 đồng và lãi suất chậm trả bằng 100% mức lãi suất cho vay của Ngân hàng TMCP X (mức lãi suất tạm tính 8%/năm) tính từ 27/08/2021 đến ngày 05/9/2023 số tiền 113.640.545 đồng, tổng cộng là: 518.640.545 đồng.

- Bị đơn - Công ty T3 và người đại diện pháp luật của bị đơn - ông Nguyễn Thanh T2 đã được triệu tập hợp lệ trong suốt quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm nhưng vắng mặt không có lý do.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

+ Về tuân theo pháp luật tố tụng: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến tại phiên tòa trước khi Hội đồng xét xử nghị án, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án và những người tham gia tố tụng chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

+ Về quan điểm giải quyết vụ án: Xét thấy bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo Hợp đồng mua bán hàng hóa đã ký kết, do đó nguyên đơn khởi kiện yêu cầu thanh toán nợ là có cơ sở chấp nhận. Theo nội dung khởi kiện và bản tự khai, tính đến ngày xét xử, bị đơn đã thanh toán tổng cộng số tiền hàng là: 1.245.000.000 đồng, còn lại là 405.000.000 đồng, do đó chấp nhận yêu cầu khởi kiện buộc bị đơn tiếp tục thanh toán số tiền nợ 405.000.000 đồng. Về lãi chậm trả, các bên có thỏa thuận trong hợp đồng mua bán về lãi suất chậm trả bằng 100% mức lãi suất cho vay của Ngân hàng TMCP X, do đó đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận mức lãi suất chậm trả trên số tiền chậm trả tương ứng với số ngày chậm trả theo 100% lãi suất của Ngân hàng TMCP X tại thời điểm xét xử vụ án. Về án phí, đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền thụ lý, giải quyết vụ án:

Xét thấy, nguyên đơn - Công ty C khởi kiện yêu cầu bị đơn - Công ty T3 thanh toán các khoản tiền phát sinh từ Hợp đồng mua bán hàng hóa, đây là tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận, do đó quan hệ tranh chấp trong vụ án này được xác định là “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” quy định tại khoản 1 Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Bị đơn có trụ sở tại thành phố T nên căn cứ khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền thụ lý, giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Về thủ tục tố tụng:

- Các đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự không yêu cầu Tòa án xem xét về thời hiệu khởi kiện, do đó căn cứ khoản 2 Điều 184 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án được thụ lý giải quyết theo thủ tục chung mà không xem xét đến vấn đề thời hiệu.

- Tòa án đã tiến hành thủ tục tống đạt hợp lệ cho bị đơn và người đại diện pháp luật của bị đơn - ông Nguyễn Thanh T2, tuy nhiên bị đơn và ông T2 vẫn vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm mà không có lý do, do đó căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn và người đại diện pháp luật của bị đơn.

[3] Về Hợp đồng mua bán hàng hóa số 01/2021/PMG-TBD ngày 07/7/2021 (sau đây gọi là Hợp đồng) và các văn bản xác nhận công nợ giữa hai bên.

Tại Điều 1, Điều 2 của Hợp đồng thể hiện: Loại hàng hóa mua bán là chai LPG loại 45kg (99 lít) mới 100%; số lượng là 1.000 chai; đơn giá 1.500.000 đồng/chai (chưa bao gồm thuế GTGT 10% và đã bao gồm chi phí vận chuyển), tổng số tiền hàng hóa mua bán là 1.650.000.000 đồng; ngoài ra Hợp đồng còn có một số quy định liên quan thời gian và địa điểm giao hàng, quyền và nghĩa vụ của các bên, thời hạn và phương thức thanh toán, phạt và bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng,... Sau khi nguyên đơn đã thực hiện xong nghĩa vụ giao hàng, các bên có tiến hành đối chiếu công nợ, cụ thể như: Biên bản đối chiếu công nợ các ngày 31/12/2021, 31/8/2022.

Xét Hợp đồng và các Văn bản xác nhận công nợ nêu trên được các bên ký kết có hình thức đúng quy định của pháp luật, nội dung các bên thỏa thuận không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, các bên tự nguyện ký kết, phù hợp với quy định tại Điều 117, Điều 398, Điều 430, Điều 431, Điều 432, Điều 433, Điều 434, Điều 435 Bộ luật Dân sự 2015 nên có giá trị pháp lý, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong hợp đồng kể từ thời điểm ký kết.

[4] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

[4.1] Đối với yêu cầu buộc bị đơn thanh toán số tiền hàng còn nợ chưa trả là 450.000.000 đồng:

- Tại khoản 2.2 Điều 2 Hợp đồng và Hóa đơn GTGT số 0000809 ngày 17/8/20221 thể hiện số tiền hàng hóa hai bên mua bán là 1.650.000.000 đồng và theo lời trình bày của nguyên đơn thì tính đến ngày khởi kiện, bị đơn còn nợ số tiền 555.000.000 đồng, số tiền này cũng phù hợp với nội dung tại Công văn số 01/2022/NCC-TBD ngày 06/7/2022 của Công ty T3 thể hiện tính đến ngày 06/7/2022 số tiền bị đơn còn nợ nguyên đơn là 555.000.000 đồng. Theo Bản tự khai ngày 05/9/2023, nguyên đơn cung cấp thêm thông tin ngày 23/01/2023, bị đơn có thanh toán thêm số tiền 150.000.000 đồng nên số tiền nợ hàng bị đơn chưa thanh toán còn lại là 405.000.000 đồng. Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn cũng như người đại diện pháp luật không đưa ra quan điểm giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không có phản đối gì liên quan đến tài liệu, chứng cứ trong vụ án và không có yêu cầu phản tố; sự im lặng của bị đơn chính là thừa nhận công nợ chưa trả. Như vậy, có cơ sở xác định bị đơn còn nợ tiền hàng chưa trả là 405.000.000 đồng, do đó yêu cầu khởi kiện nêu trên của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận.

[4.2] Đối với yêu cầu buộc bị đơn trả tiền lãi chậm trả phát sinh từ ngày 27/8/2021 đến ngày 05/9/2023 số tiền 113.640.545 đồng:

Theo nội dung nguyên đơn trình bày, bị đơn đã thanh toán cho nguyên đơn các khoản tiền cụ thể như sau:

+ Ngày 09/7/2021, tạm ứng số tiền 495.000.000 đồng;

+ Ngày 08/4/2022 thanh toán số tiền 200.000.000 đồng;

+ Ngày 27/4/2022, thanh toán số tiền 200.000.000 đồng;

+ Ngày 06/5/2022, thanh toán số tiền 200.00.000 đồng;

+ Ngày 23/01/2023, thanh toán số tiền 150.000.000 đồng. Tổng số tiền bị đơn đã thanh toán là 1.245.000.000 đồng.

Tại khoản 2.2 Điều 2 Hợp đồng thể hiện “Trong vòng 10 ngày kể từ ngày bên mua nhận được hàng, căn cứ số lượng hàng hóa và phù hợp với hóa đơn GTGT bên mua sẽ thanh toán cho bên bán bằng 100% giá trị hóa đơn”. Tại Điều 6 Hợp đồng thể hiện “Nếu bên mua thanh toán không đúng kỳ hạn như khoản 2.3 Điều 2 của Hợp đồng thì bên mua phải trả cho bên bán tiền lãi trên số tiền chậm trả bằng 100% mức lãi suất cho vay của Ngân hàng TMCP X1 tại thời điểm thanh toán”. Theo Thông báo ngày 05/9/2023 của Ngân hàng TMCP X1 - Chi nhánh S về việc thông báo lãi suất cho vay thể hiện “Lãi suất cho vay áp dụng là 8,9%)/năm”, áp dụng kể từ ngày 05/9/2023 cho đến khi có thông báo mới”. Tính đến ngày 27/8/2021, bị đơn vẫn chưa hoàn thành việc thanh toán (chỉ mới thanh toán số tiền 1.245.000.000 đồng), do đó nghĩa vụ chịu lãi phạt chậm trả của bị đơn phát sinh kể từ ngày 27/8/2021 tương ứng với số tiền nợ chưa thanh toán theo mức lãi suất nêu trên. Căn cứ theo thỏa thuận nêu trên của Hợp đồng và tiến trình thanh toán nợ của bị đơn, tiền lãi phạt chậm trả được tính như sau:

+ Từ ngày 27/8/2021 đến ngày 07/4/2022: 1.155.000.000 đồng x (8,9%:365) x 223 ngày = 62.803.520 đồng;

+ Từ ngày 08/4/2022 đến ngày 26/4/2022: 955.000.000 đồng x (8,9%:365) x 19 ngày = 4.424.397 đồng;

+ Từ ngày 27/4/2022 đến ngày 05/5/2022: 755.000.000 đồng x (8,9%:365) x 09 ngày = 1.656.863 đồng;

+ Từ ngày 06/5/2022 đến ngày 22/01/2023: 555.000.000 đồng X (8,9%:365) X 261 ngày = 35.320.808 đồng;

+ Từ ngày 23/01/2023 đến ngày 05/9/2023: 405.000.000 đồng x (8,9%:365) x 225 ngày = 22.219.520 đồng.

Tổng cộng số tiền lãi chậm trả từ ngày 27/8/2021 đến ngày xét xử sơ thẩm (05/9/2023) là: 126.425.108 đồng.

Như đã phân tích ở trên, do bị đơn đã vi phạm thời hạn thanh toán theo Hợp đồng nên phải chịu phạt lãi chậm trả theo thỏa thuận, do đó yêu cầu khởi kiện nêu trên của nguyên đơn là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Như vậy, tổng số tiền mà bị đơn phải trả cho nguyên đơn là: 531.425.108 (năm trăm ba mươi mốt triệu bốn trăm hai mươi lăm nghìn một trăm lẻ tám) đồng, trong đó số tiền nợ chưa thanh toán là: 405.000.000 đồng, số tiền phạt lãi chậm trả là: 126.425.108 đồng.

[4.3] Đối với yêu cầu buộc bị đơn trả tiền lãi phát sinh sau ngày xét xử sơ thẩm:

Như phân tích ở trên, Điều 6 Hợp đồng quy định “Nếu bên mua thanh toán không đúng kỳ hạn thì bên mua phải trả cho bên bán tiền lãi trên số tiền chậm trả bằng 100% mức lãi suất cho vay của Ngân hàng TMCP X1 tại thời điểm thanh toán”. Do vậy, kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (ngày 06/9/2023) cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ thì bị đơn còn phải chịu khoản tiền lãi phát sinh theo Hợp đồng nêu trên. Xét yêu cầu này của nguyên đơn là có cơ sở, phù hợp với quy định tại Điều 13 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiềm sát nhân dân thành phố Thủ Đức tại phiên tòa là phù hợp với nhận định nêu trên của Hội đồng xét xử nên chấp nhận toàn bộ.

Từ những phân tích nêu trên của Hội đồng xét xử và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở nên chấp nhận toàn bộ: Buộc bị đơn - Công ty T3 phải thanh toán cho nguyên đơn - Công ty P.M.G toàn bộ số tiền tính đến ngày 05/9/2023 tổng cộng là 531.425.108 (năm trăm ba mươi mốt triệu bốn trăm hai mươi lăm nghìn một trăm lẻ tám) đồng, trong đó số tiền nợ chưa thanh toán là: 405.000.000 đồng, số tiền phạt lãi chậm trả là: 126.425.108 đồng; thanh toán ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Tiền lãi sẽ tiếp tục phát sinh trên số tiền nợ chưa trả (405.000.000 đồng) theo lãi suất các bên thỏa thuận trong Hợp đồng kể từ ngày 06/9/2023 cho đến khi Công ty T3 trả hết số nợ.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Án phí dân sự sơ thẩm được tính trên số tiền 531.425.108 đồng, tương đương án phí sơ thẩm là 25.257.000 (hai mươi lăm triệu hai trăm năm mươi bảy nghìn) đồng. Nguyên đơn không phải chịu án phí, hoàn trả lại cho nguyên đơn toàn bộ tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 30; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 2 Điều 184; Điều 147; điềm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; khoản 1 Điều 273; Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 117; Điều 357; Điều 398; Điều 430; Điều 431; Điều 432; Điều 433; Điều 434 và Điều 435 Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014);

- Căn cứ Điều 13 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn - Công ty Trách nhiệm hữu hạn C.

Buộc bị đơn - Công ty Cổ phần T3 phải thanh toán cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn C P.M.G toàn bộ số tiền tính đến ngày 05/9/2023 tổng cộng là 531.425.108 (năm trăm ba mươi mốt triệu bốn trăm hai mươi lăm nghìn một trăm lẻ tám) đồng, trong đó số tiền nợ chưa thanh toán là: 405.000.000 đồng, số tiền phạt lãi chậm trả là: 126.425.108 đồng; thanh toán ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Thanh toán ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm là ngày 06/9/2023 cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án (Công ty Cổ phần T3) còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền nợ gốc còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận trong hợp đồng đã ký kết và phải phù hợp với quy định của pháp luật.

Các bên thi hành tại Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

2. Án phí dân sự sơ thẩm:

- Buộc bị đơn - Công ty Cổ phần T3 phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm số tiền 25.257.000 (hai mươi lăm triệu hai trăm năm mươi bảy nghìn) đồng. Bị đơn chưa đóng án phí.

- Hoàn trả cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn C P.M.G số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 14.755.378 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2022/0006832 ngày 15/11/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Về quyền yêu cầu thi hành án: Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Quyền kháng cáo, kháng nghị: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được cấp, tống đạt, niêm yết, thông báo theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Viện kiểm sát được quyền kháng nghị bản án theo quy định pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

29
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 3458/2023/KDTM-ST về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa

Số hiệu:3458/2023/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân TP. Thủ Đức - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 05/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;